SG-43 Goryunov
SG-43 | |
---|---|
Loại | Súng máy hạng trung |
Nơi chế tạo | Liên Xô |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1943–1968 (Liên Xô) |
Sử dụng bởi | Liên Xô Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Việt Nam Lào Kampuchea Campuchia Cuba Trung Quốc CHDCND Triều Tiên |
Lược sử chế tạo | |
Người thiết kế | P.M. Goryunov |
Năm thiết kế | 1943 |
Các biến thể | SG-43, SGM, SGMT, SGMB |
Thông số | |
Khối lượng | |
Chiều dài | 1.150 mm |
Độ dài nòng | 720 mm |
Đạn | 7.62×54mmR |
Cơ cấu hoạt động | Nạp đạn bằng khí nén |
Tốc độ bắn | 500–700 viên/phút |
Sơ tốc đầu nòng | 800 m/s |
Tầm bắn hiệu quả | 1100 m |
Chế độ nạp | Dây đạn 200 hay 250 viên |
SG-43 Goryunov là loại súng máy hạng trung của Liên Xô, được thiết kế, sản xuất và sử dụng trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Súng sử dụng loại đạn súng trường 7.62×54mmR. Nó xuất hiện lần đầu vào năm 1943 như một mẫu thay thế cho PM M1910 và có thể gắn vào bánh xe để dễ dàng di chuyển, hoặc gắn trên bệ chống ba chân hay thậm chí trên các xe tăng. Sau chiến tranh thế giới thứ hai nó được đổi tên thành SGM. Mẫu biến thể chuyên dùng gắn trên xe tăng có tên SGMT. SG-43 đã được xuất khẩu với số lượng lớn và được chế tạo tại nhiều nước trên thế giới. Hungary đã tạo ra một biến thể nhẹ hơn là khẩu súng máy đa chức năng KGK. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nó được sử dụng trong chiến tranh Triều Tiên bởi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và lực lượng quân tình nguyện của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trong chiến tranh Việt Nam nó được sử dụng bởi Quân đội Nhân dân Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Tại Liên Xô, súng máy SG-43 đã được thay thế bởi súng máy PK trong những năm 1960.