Bước tới nội dung

Jessica Jung

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Jessica (ca sĩ))
Jessica
Jessica vào năm 2024
Sinh18 tháng 4, 1989 (35 tuổi)
San Francisco, California, Hoa Kỳ
Quốc tịch
Nghề nghiệp
  • Ca sĩ
  • Diễn viên
  • Nhà thiết kế thời trang
Quê quánJeonju, Jeolla Bắc, Hàn Quốc
Người thânKrystal Jung (em gái)
Tên tiếng Triều Tiên
Hangul
정수연
Hanja
Romaja quốc ngữJeong Su-yeon
McCune–ReischauerChŏng Suyŏn
Hán-ViệtTrịnh Tú Nghiên
Tên khai sinh
Hangul
제시카 정
Romaja quốc ngữJesika Jeong
McCune–ReischauerChesik'a Chŏng

Jessica Jung (sinh ngày 18 tháng 4 năm 1989), hay Jung Soo-yeon, thường được biết đến với nghệ danh Jessica, là một nữ ca sĩ, diễn viên, nhà thiết kế thời trang kiêm doanh nhân người Mỹ gốc Hàn Quốc. Cô được biết đến là cựu thành viên của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Girls' Generation.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Jessica Jung được sinh ra tại San Francisco, California, Mỹ. Gia đình cô di cư sang Mỹ từ những năm 80 và trở về Hàn Quốc năm Jessica 11 tuổi.[1] Bố của Jessica là luật sư kiêm nghề tay trái là võ sĩ quyền anh còn mẹ là bà Lee Jung-suk, huấn luyện viên thể dục nhịp điệu.

Năm 2000, Jessica và em gái Krystal được SM phát hiện khi đi dạo cùng gia đình ở xung quanh quận Bundang, Seongnam, Gyeonggi-do[2] và được mời tham gia thử giọng. Jessica đã tham gia cuộc thi 2000 SM Casting System và trở thành thực tập sinh tại SM vào cùng năm. Sau đó cô được đào tạo bài bản về ca hát, vũ đạo và diễn xuất tại SM Town trong vòng 7 năm 6 tháng. Jessica tốt nghiệp trường quốc tế Korea Kent Foreign School cùng với thành viên Tiffany vào tháng 5 năm 2007.[3].

Sự nghiệp âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

2007-2014: Thành viên Girls' Generation

[sửa | sửa mã nguồn]

Jessica là thành viên đầu tiên trong Girls' Generation gia nhập công ty quản lý SM Entertainment vào năm 2000. Cô được chọn là thành viên của nhóm nhạc nữ chín thành viên ra mắt vào ngày 5 tháng 8 năm 2007.

Ngoài các hoạt động trong nhóm, Jessica đã phát hành hai đĩa đơn với SeohyunTiffany: "Love Hate" (Tiếng Hàn"오빠 나빠", Oppa Nappa)[4] và "Mabinogi (It's Fantastic!)".[5]

Jessica hợp tác với 8Eight cho bài hát "I Love You" từ album thứ hai của họ, Infinity, được phát hành vào ngày 3 tháng 3 năm 2008. Mặc dù Jessica là người hát hòa âm, nhưng cô không xuất hiện trong MV. Ngoài ra, cô đã có nhiều bản song ca khác - một với thành viên Onew nhóm Shinee, ca khúc "One Year Later", và một với Park Myung-soo, "Naengmyeon". Jessica góp giọng trong "Seoul Song " với Leeteuk, Sungmin, Donghae, Siwon, Ryeowook và Kyuhyun của nhóm Super Junior cùng các thành viên cùng nhóm là Taeyeon, Sunny, Sooyoung và Seohyun.

Màn ra mắt lần đầu trên sân khấu nhạc kịch của Jessica là vở Legally Blonde phiên bản Hàn Quốc, cùng với Lee Ha-nui và Kim Ji-woo;[6] quá trình dàn dựng bắt đầu vào ngày 14 tháng 11 năm 2009.[7] Cùng năm, cô tham gia một phần đặc biệt trong chương trình Infinity Challenge cho số phát sóng đặc biệt mùa hè, trong đó cô được chọn để hát một bản song ca mang tên "Naengmyeon" với Park Myung-soo, một trong những MC.[8]

Tháng 3 năm 2010, cô vào vai khách mời trong phim Oh! My Lady của đài SBS.[9] Vào tháng 5 năm 2010, Jessica trở thành khách mời thường xuyên của chương trình Happy Birthday cho đến khi rút lui vào ngày 7 tháng 6 năm 2010, do các hoạt động ở nước ngoài của Girls 'Generation.[10] Cô cũng là khách mời thường xuyên của chương trình Star King cùng với thành viên Yuri. Jessica phát hành một đĩa đơn kỹ thuật số mang tên "Sweet Delight" vào ngày 13 tháng 10 năm 2010.

Năm 2011, Jessica tham gia hát nhạc phim Romance Town của đài KBS với bài hát "Because Tears Are Overflows" (tiếng Triều Tiên: 눈물이 넘쳐서).[11]

Jessica tham gia phim truyền hình đầu tay Wild Romance với vai khách mời[12] và trở lại sân khấu nhạc kịch Legally Blonde, cùng với Jung Eun-ji và Choi Woori. Buổi biểu diễn đầu tiên của cô là vào ngày 28 tháng 11 năm 2012. Jessica còn thể hiện ca khúc "What To Do" (góp giọng với Kim Jin-pyo) là nhạc nền của phim truyền hình Wild Romance, "Butterfly" (song ca với em gái Krystal) cho phim thần tượng To The Beautiful You,[13] "Heart Road" cho phim truyền hình The King's Dream,[14] cũng như ca khúc "My Lifestyle", một ca khúc quảng cáo cho Hyundai i30.[15]

Jessica với tư cách là thành viên của Girls 'Generation trong buổi biểu diễn tại MBC Gayo Daejejun năm 2013

Năm 2013, Jessica thể hiện ca khúc "The One Like You" cho phim Dating Agency: Cyrano.[16]

Năm 2014, Jessica phát hành "Say Yes" cho nhạc phim Make Your Move, góp giọng cùng em gái Krystal và cựu thành viên của nhóm EXO, Kris.

Jessica và em gái Krystal tham gia chương trình truyền hình thực tế của riêng họ có tên Jessica & Krystal.[17] Chương trình được lên sóng vào ngày 3 tháng 6[18] và bao gồm mười tập.[19]

Ngày 30 tháng 9 năm 2014, Jessica đăng bài viết trên tài khoản Weibo cá nhân cho biết cô đã bị "ép ra khỏi nhóm".[20] SM Entertainment sau đó đã xác nhận điều này, nói rằng Jessica sẽ không còn là thành viên của Girls' Generation. Công ty cũng tuyên bố rằng nhóm sẽ tiếp tục quảng bá với 8 thành viên trong khi vẫn quản lý các hoạt động solo của Jessica.[20][21]

Jessica đưa ra tuyên bố của riêng mình thông qua công ty thời trang Blanc Group, giải thích rằng cô đã được công ty quản lý và các thành viên khác của nhóm yêu cầu rời khỏi nhóm.[22]

Ca khúc cuối cùng của cô góp giọng với Girls’ Generation là "Divine", trong phiên bản phát hành lại thuộc album thành công nhất của nhóm tại Nhật Bản, The Best.

Diễn xuất và ra mắt solo

[sửa | sửa mã nguồn]
Jessica tại sự kiện Marina Bay Sands Valentino năm 2016

Năm 2015, Jessica xác nhận vào vai nữ chính trong bộ phim hài tình cảm của Trung Quốc có tựa đề I Love That Crazy Little Thing, đóng cặp với Trần Vỹ ĐìnhTạ Đình Phong.[23] Phim ra mắt vào tháng 8 năm 2016, Jessica song ca với Trần Vỹ Đình trong bài hát chủ đề "Love! Love! Aloha!".

Vào ngày 6 tháng 8 năm 2015, SM Entertainment đã đưa ra một tuyên bố chính thức cho biết công ty và cựu thành viên của Girls' Generation đã chính thức ngừng hợp tác.[24] Năm sau, Jessica được xác nhận là nữ chính trong bộ phim tự truyện về Stephon Marbury có tựa đề My Other Home, đóng cùng với chính Marbury.[25] Cô cũng được chọn vào phim hài hành động ngắn Two Bellmen Three bên cạnh Ki Hong Lee. Jessica còn góp mặt trong chương trình tạp kỹ của thể thao Trung Quốc YES!Coach, trong đó tham gia một cuộc thi bơi lội sau khi được huấn luyện bởi vận động viên bơi lội chuyên nghiệp Tôn Dương. Jessica cũng tham gia chủ trì chương trình truyền hình về làm đẹp Beauty Bible, cùng với cựu idol Kim Jae-kyung.

Tháng 2 năm 2016, Jessica thông báo rằng album solo đầu tiên của cô sẽ được phát hành dưới công ty quản lý mới, Coridel Entertainment.[26][27]

Vào tháng 4 năm 2016, công ty quản lý thông báo rằng Jessica sẽ phát hành album đầu tiên của cô ấy vào tháng 5.[28] Vào ngày 30 tháng 4, Coridel Entertainment đã phát hành danh sách ca khúc bao gồm ca khúc chủ đề "Fly" góp giọng với Fabolous. Jessica đã viết và sáng tác bốn trong số sáu bài hát.[29] Tên của album sau được tiết lộ là With Love, J, và được phát hành vào ngày 17 tháng 5 năm 2016, cùng với đĩa đơn chính, "Fly".[30]

MV ca khúc "Fly" đã thu về hơn 2 triệu lượt xem trong vòng 24 giờ sau khi phát hành. Video cho đĩa đơn thứ hai, "Love Me the Same", được phát hành vào ngày hôm sau, ngày 18 tháng 5 năm 2016.[29] With Love, J đứng đầu tám bảng xếp hạng âm nhạc và cũng đứng đầu trên Bảng xếp hạng hàng tuần Hanteo và Bảng xếp hạng album hàng tuần Gaon.[31] Phiên bản tiếng Anh cho album EP, được phát hành vào ngày 27 tháng 5, có 5 trong số 6 bài hát gốc.[32]

Cùng năm, Jessica đã tổ chức một tour giao lưu gặp gỡ người hâm mộ châu Á bắt đầu tại Seoul vào ngày 1 tháng 6, tiếp tục đến các quốc gia khác như Thái Lan, Đài Loan và Nhật Bản. Chuyến lưu diễn kết thúc vào ngày 5 tháng 11 tại Thượng Hải. Các buổi biểu diễn tiếp theo dự kiến ​​diễn ra tại Singapore, Indonesia, Philippines và Việt Nam đã bị hủy do vấn đề sức khỏe và lo ngại Jessica phải làm việc quá sức trước khi phát hành album tiếp theo.[33][34][35][36][37][38]

Vào tháng 12, Jessica có màn trở lại với một album Giáng sinh EP có tên Wonderland, bao gồm sáu bài hát, bốn trong số đó cô tham gia viết. Album và ca khúc chủ đề cùng tên được phát hành vào ngày 10 tháng 12.[39] Album cũng có một phiên bản tiếng Anh, với bốn trong sáu bài hát gốc tiếng Hàn.[40]

2017–nay: My Decade và tiểu thuyết đầu tay

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 14 tháng 4 năm 2017, Coridel Entertainment đã phát hành một loạt hình ảnh teaser xác nhận rằng Jessica sẽ trở lại đầu tiên trong năm với một đĩa đơn kỹ thuật số mang tên "Because It's Spring", vào ngày 18 tháng 4 năm 2017.[41] Cũng trong tháng đó, tạp chí Forbes đưa Jessica vào danh sách 30 Under 30 Asia 2017, bao gồm 30 người dưới 30 tuổi có ảnh hưởng và đã tạo ra hiệu quả đáng kể trong lĩnh vực của họ.[42] "Because It's Spring" sau đó đã được đưa vào album EP thứ ba của cô ấy là My Decade, phát hành vào ngày 9 tháng 8 năm 2017 để kỷ niệm 10 năm kể từ khi ra mắt. Jessica đã tham gia viết 5 trong số 6 bài hát trong album. Đĩa đơn chính "Summer Storm" và video âm nhạc của nó được phát hành cùng ngày.

Tháng 7 năm 2017, Jessia bắt đầu chuyến lưu diễn mini concert đầu tiên mang tên "On Cloud Nine". Buổi diễn đầu tiên của chuyến lưu diễn là ở Đài Bắc, diễn ra vào ngày 29 tháng 7 năm 2017. Jessica cũng tổ chức các buổi biểu diễn ở Seoul, Osaka, Tokyo và Bangkok như một phần của chuyến lưu diễn. Một chương trình dự kiến ​​diễn ra tại Hồng Kông vào ngày 15 tháng 10 năm 2017 đã bị hủy bỏ do Bão Khanun ảnh hưởng đến khu vực này.[43] Buổi trình diễn cuối cùng của "On Cloud Nine" diễn ra tại Ma Cao vào ngày 3 tháng 3 năm 2018.[44][45][46][47][48][49]

Tháng 5 năm 2018, Jessica đã ký hợp đồng với United Talent Agency. Công ty sẽ đại diện cho Jessica tại khu vực Bắc Mỹ trong lĩnh vực âm nhạc, điện ảnh, truyền hình và quảng cáo.[50] Tháng 10, Jessica tổ chức một mini-concert thứ hai ở Đài Loan mang tên "Golden Night".[51] Vào ngày 14 tháng 12, Jessica đã phát hành một đĩa đơn Giáng sinh mang tên "One More Christmas" hợp tác với thương hiệu mỹ phẩm Amuse Cosmetics của Hàn Quốc.[52]

Tháng 6 năm 2019, Jessica cùng em gái Krystal đã quay chương trình thực tế thứ hai của họ tại Mỹ.[53] Đĩa đơn của Jessica, "Call Me Before You Sleep" được phát hành kỹ thuật số vào ngày 26 tháng 9 và có sự góp mặt của rapper Giriboy trong phiên bản tiếng Hàn. Phiên bản tiếng Nhật đã được phát hành vào ngày 9 tháng 10 và có sự tham gia của CrazyBoy thuộc Sandaime J Soul Brothers.[54][55] Ca khúc được sản xuất bởi Cha Cha Malone.[56] Cô cũng tổ chức một buổi gặp gỡ người hâm mộ tại Nhật Bản, XOXO Jessica Jung Fan Meeting, vào ngày 2 tháng 10, với nhóm nhạc nữ GWSN xuất hiện với tư cách là người mở màn.[57] Các buổi diễn tiếp theo được tổ chức tại Đài Loan và Thái Lan, lần lượt vào ngày 19 và 27 tháng 10.[58][59] Trong cùng tháng, có thông báo rằng Jessica sẽ cho ra mắt cuốn tiểu thuyết đầu tay, Shine, vào mùa thu năm 2020 như một phần của hợp đồng hai cuốn sách với Simon Pulse, ấn bản của Simon & Schuster. Glasstown Entertainment đã bán cuốn tiểu thuyết cho mười một quốc gia và đang phát triển một bộ phim chuyển thể do Matthew Kaplan của ACE Entertainment sản xuất.[60]

Shine, phát hành vào ngày 30 tháng 9 năm 2020, đứng ở vị trí thứ năm trong danh sách Sách bán chạy nhất của The New York Times trong danh mục Sách bìa cứng dành cho giới trẻ trong số ra ngày 18 tháng 10.[61]

Vào tháng 5 năm 2010, Jessica tham gia vào chương trình truyền hình "Happy Birthday". Cô rời khỏi chương trình này vào ngày 7 tháng 6 năm 2010 vì những hoạt động ở nước ngoài của SNSD.[62]

Kinh doanh

[sửa | sửa mã nguồn]

Thương hiệu thời trang riêng

[sửa | sửa mã nguồn]
Logo thương hiệu thời trang của cô

Tháng 8 năm 2014, Jessica ra mắt thương hiệu thời trang riêng Blanc & Eclare, được miêu tả là một thương hiệu với những sản phẩm kết hợp nét hiện đại và cổ điển cùng những chi tiết thú vị được lấy cảm hứng từ gu thời trang của riêng Jessica.

Cô chia sẻ: "Ước mơ của tôi về việc ra mắt Blanc cuối cùng đã thành hiện thực. Tôi rất phấn khích khi phát triển một nhãn hiệu thời trang và giới thiệu nó ra thế giới. Qua công việc sáng tạo với các nhà thiết kế và người mẫu thời trang, tôi học được rất nhiều và tôi rất mong muốn được tiếp tục chia sẻ những thông tin mới về các đối tác mà tôi có được."[63] Thương hiệu sau đó đã được đổi tên thành Blanc & Eclare.

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong một mini concert tại Đài Loan vào tháng 7 năm 2017, Jessica đã tiết lộ rằng tên khai sinh trên hộ chiếu cá nhân là "Jessica Jung", trong khi tên tiếng Hàn "Soo-yeon" chỉ được chọn về sau do cần thiết.[64] Cô ấy tự mô tả mình là "Cơ đốc giáo ham tìm tòi" và đi nhà thờ.[65].

Ngày 17 tháng 5 năm 2016, Jessica xác nhận đang hẹn hò với bạn trai đại gia từ năm 2013.

Giọng hát

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Loại giọng: Light Lyric Soprano (Nữ cao trữ tình loại sáng)
  • Quãng giọng: D3 ~ G5 ~ D6 (3 quãng tám)
  • Supported range (quãng hát hỗ trợ): G3/G#3 ~B4/C5

Danh sách đĩa hát

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Thông tin album Vị trí cao nhất Doanh số
Hàn Quốc
[66]
Nhật Bản
[67]
Billboard charts
[68]
Top Heatseekers
[69]
With Love, J 1 34 4 16
Wonderland 1 85 7
  • Hàn Quốc: 39,774+[73]
  • Nhật Bản: 1,773
My Decade

Danh sách đĩa hát cá nhân

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên đĩa đơn Bài hát Độ dài Nghệ sĩ
2007 SBS Thirty Thousand Miles in Search of My Son "Touch the Sky" 03:49 Cùng Taeyeon, Seohyun, SunnyTiffany
2008 Roommate "Love Hate" 03:45 Cùng SeohyunTiffany
It's Fantastic "It's Fantastic" 03:40 Cùng SeohyunTiffany
Infinity "I Love You" 03:40 Cùng 8eight
"Holding Hands" 03:54 Cùng Tiffany, Super Junior, SS501, Jewelry, Brown Eyed Girls, Lee Hyun và T.G.U.S
KBS Hong Gildong OST "The Little Boat (작은 배)" 03:27 Cùng Taeyeon, Seohyun, Sunny và Tiffany
"Haptic Motion" 01:31 Cùng Taeyeon, Seohyun và Sunny
2009 Olympic Duet Song Festival "NaengMyun" 03:41 Cùng Park Myung-soo
Tell Me Your Wish (Genie) "One Year Later" 04:00 Cùng Onew
MBC Heading to the Ground OST "Motion" 04:06 Cùng Taeyeon, Seohyun, Sunny và Tiffany
"S.E.O.U.L." 03:47 Cùng Taeyeon, Seohyun, Sunny và Kyuhyun, Sungmin, Ryeowook, DonghaeLeeteuk của Super Junior
"I Can't Bear Anymore (Bear Song)" 02:43 Cùng Taeyeon, Seohyun and Sunny
2010 Sweet Delight "Sweet Delight" 03:20 Solo
"Cabi Song" 03:19 Cùng Taeyeon, Tiffany, Seohyun, Sunny, Yuri, Chansung, Junsu, và Taecyeon
"Cooky" 02:50 Cùng Tiffany, Seohyun và Sunny
My Friend Haechi "Haechi Song" (해치송)[74] 03:26 Cùng Taeyeon, Sunny, Tiffany và Seohyun
2011 Romance Town "Because Tears Are Overflowing" 04:46 Solo
2012 KBS Wild Romance "What To Do" 03:54 Cùng Kim Jin-pyo
SBS To the Beautiful You "Butterfly" 03:01 Cùng Krystal
KBS The King's Dream "Heart Road" 04:19 Solo
PYL Younique Volume 1 "My Unique Lifestyle" 03:06 Cùng Dok2
2013 Dating Agency: Cyrano "The One Like You" 04:15 Solo
2014 Make Your Move 3D "Say Yes" 03:58 Cùng Krystal JungKris Wu
"Cheap Creeper" 03:01 Cùng Taeyeon, Tiffany, Sunny & Seohyun

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Bài Hát Vị trí cao nhất
 Hàn Quốc  Hoa Kỳ
Gaon Billboard
2010 "Sweet Delight" 48
2011 "Because Tears Are Overflowing" 20
2012 "What To Do" (with Kim Jin-pyo) 12 14
"Butterfly" (with Krystal) 22 17
"Heart Road" 57 43
"My Lifestyle" (with Dok2) 34 30
2013 "The One Like You" 37 21
2016 "Fly"" 4 -
2017 " Summer Storm "

Video âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Ngày phát hành
2016 Fly 17 tháng 5 năm 2016
Love Me The Same 18 tháng 5 năm 2016
WONDERLAND 10 tháng 12 năm 2016
2017 Summer Storm 09 tháng 8 năm 2017

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên phim Vai Chú thích
2012 I AM. – SM Town Live World Tour in Madison Square Garden Chính mình Phim tiểu sử của SM Town[75]
2016 I Love That Crazy Little Thing Lạc Thiến Thiến [76]
2016 My Other Home [77]

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên phim Vai Ghi chú Đài phát sóng
2008 Unstoppable Marriage Một trong 7 công chúa của Bulgwang-dong Khách mời KBS2
2009 Tae-hee, Hye-kyo, Ji-hyun! Giáo viên tiếng Anh Khách mời MBC
2010 Oh! My Lady Chính mình Khách mời SBS
2012 Wild Romance Kang Jong-hee Vai phụ KBS2

Truyền hình thực tế

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên chương trình Tập Ghi chú
2010 Happy Birthday All
2014 Jessica & Krystal 1-10 cùng Krystal, mô tả hoạt động hàng ngày của hai chị em
2015 Yes! Coach 7 show thể thao, bơi lội
12 Đạo Phong Vị 9 Khách mời
2021 Jessica & Krystal – US Road Trip 1-8 cùng Krystal Jung
2022 Tỷ Tỷ Đạp Gió Rẽ Sóng 3 1-12 Thí sinh - Thành đoàn - Vị trí 2
Ban Nhạc Bên Bờ Biển 1-4, 6-10 Thành viên chính
2023 Great Dance Crew 2 1-10 Đội trưởng
Giọng Hát Trời Ban 4 5-8 Khách mời

Nhạc kịch

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Vai Ghi chú
2009–2010; 2012–2013 Legally Blonde Elle Woods Vai chính

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Giải thưởng Hạng mục Kết quả
2012 3rd Annual Barbie & Ken Awards Korean Barbie Đoạt giải[78]
SBS MTV Best of the Best Vai khách mời xuất sắc nhât Đề cử[79]
2013 7th The Musical Award Popularity Award Đoạt giải
2014 7th Style Icon Awards Top 10 Style Icons (with Krystal Jung) Đoạt giải
Sohu Fashion Awards Biểu tượng thời trang châu Á Đoạt giải
2015 Yahoo Asia Buzz Awards Giải thưởng mức độ phổ biến châu Á[80] Đoạt giải
2016 YinYueTai 4th V Chart Awards Nghệ sĩ xu hướng (Hàn Quốc)[81] Đoạt giải
2023 Sohu Fashion Awards Fashionista Award Đoạt giải
Đêm Hội Weibo Ca sĩ nổi bật Đoạt giải
China Music Awards Annual Fashion Singer Award Đoạt giải

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Factory Girls: Cultural technology and the making of K-pop Newyorker.com (ngày 8 tháng 10 năm 2012). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2015.
  2. ^ (tiếng Hàn) Chosun.com: 제시카, "관객 앞에서의 제 목소리에 감동했어요" Lưu trữ 2011-07-08 tại Wayback Machine, ngày 18 tháng 2 năm 2009
  3. ^ (tiếng Hàn) Chosun.com: 제시카, "관객 앞에서의 제 목소리에 감동했어요" Lưu trữ 2011-07-08 tại Wayback Machine, 18 tháng 2 năm 2009
  4. ^ (tiếng Triều Tiên) Kim Hyeong-wu. 소녀시대 티파니 “‘오빠나빠’ 활동 당시 성대 결절 고생” (Girls' Generation's Tiffany: "'Bad Older Brother' Activities Were Difficult on Vocal Nodules") Lưu trữ 2011-07-13 tại Wayback Machine. JoongAng Ilbo/Newsen. ngày 16 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2010.
  5. ^ (tiếng Triều Tiên) 소녀시대 티파니 제시카 서현 게임 주제가 신곡 발표 (Girls' Generation's Tiffany/Jessica/Seohyun Announce Game Theme Song as New Single). IS Plus/Newsen. ngày 1 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2010.
  6. ^ Chung Ah-young. 'Legally Blonde' Sparkles With Starry Cast. The Korea Times. ngày 16 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2010.
  7. ^ 3 Starts to Share Lead in 'Legally Blonde' Musical. The Chosun Ilbo. ngày 31 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2010.
  8. ^ '냉면' 제시카, "박명수 아빠같이 자상하다". daum.net (bằng tiếng Hàn). ngày 19 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2016.
  9. ^ (tiếng Triều Tiên) 소녀시대, 최시원과 의리 지키며 '오 마이 레이디'서 카메오 출연 (SNSD Makes Cameo Appearance on "Oh! My Lady", Showing Loyalty to Choi Siwon). asiae/Newsen. ngày 7 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2010
  10. ^ (tiếng Triều Tiên) Bae Sunyoung: 제시카 ‘해피 버스데이‘ 5주 출연 끝, 7일 하차( Jessica, Sau 5 tuần xuất hiện trong 'Happy Birthday', sẽ rút lui vào ngày 7 ), Newsen.com. Ngày 5 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2010.
  11. ^ “제시카 로맨스타운 OST 공개, 네티즌 "너무 달콤하다" (bằng tiếng Hàn). Financial News. ngày 18 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2015.
  12. ^ Park, Young Woong (ngày 15 tháng 2 năm 2012). “Violent Romance, SNSD's Jessica and Lee Dong Wook have a romantic date”. StarNews. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2015.
  13. ^ “Jessica Jung - IMDb”. imdb.com. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2017.
  14. ^ Jessica sings for KBS drama Korea JoongAng Daily(Ngày 6 tháng 9 năm 2012). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2015.
  15. ^ “SM, 현대자동차와 콜라보레이션…'PYL 유니크 앨범' 발표”. bntnews.hankyung.com. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2020.
  16. ^ “제시카, '시라노'에 감성 더했다… OST '그대라는 한 사람' 발매” (bằng tiếng Hàn). asiae.co.kr. ngày 2 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2017.
  17. ^ “SNSD's Jessica and f(x)'s Krystal to Star in New Program 'Jessica & Krystal'. CJ E&M enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2015.
  18. ^ “Sisters Jessica and Krystal Get Sassy and Charming in Reality Show Teaser Video”. CJ E&M enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2015.
  19. ^ “SNSD Jessica and f(x)'s Krystal Share on Wrapping Up ′Jessica & Krystal′”. mwave.interest.me. Newsen. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2015.
  20. ^ a b SM states that SNSD will promote as eight without Jessica Lưu trữ 2016-03-21 tại Wayback Machine Mwave.interest.me (Ngày 30 tháng 9 năm 2014). Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2014.
  21. ^ SMTown's Official Statement Lưu trữ 2017-06-11 tại Wayback Machine SM Entertainment (ngày 30 tháng 9 năm 2014). Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2014.
  22. ^ Jessica releases a statement of her own Lưu trữ 2016-04-06 tại Wayback Machine Mwave.interest.me (ngày 1 tháng 10 năm 2014). Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2015.
  23. ^ “[SS차이나톡] "소녀 느낌 물씬" 제시카, 풋풋한 매력 발산” (bằng tiếng Hàn). entertain.naver.com. ngày 20 tháng 6 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2017.
  24. ^ “Singer Jessica quits SM Entertainment”. The Korea Times. ngày 6 tháng 8 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2015.
  25. ^ Hendricks, Jaclyn (ngày 19 tháng 4 năm 2016). “Meet the Korean pop star who'll help tell Stephon Marbury's life story”. New York Post. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2016.
  26. ^ “Coridel Entertainment - Artists”. www.coridel.com. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2016.
  27. ^ “Jessica Jung To Release First Album After Girls' Generation — Signed Copies Free To Shoppers Buying $250 Worth Of Blanc & Eclare Cosmetics”. The Inquisitr News. ngày 21 tháng 2 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2016.
  28. ^ “제시카 측 "5월 컴백 맞다…막바지 준비·날짜 조율 중". nate.com. ngày 18 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2016.
  29. ^ a b coridelent1. “[제시카] 최종 트랙리스트 공개”. CORIDEL ENTERTAINMENT. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2016.
  30. ^ Herman, Tamar (ngày 17 tháng 5 năm 2016). “Jessica Jung on Recording Solo After Girls' Generation: 'I Was Really Surprised I Could Have Input'. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2017.
  31. ^ “제시카 '원더랜드', 한터·가온 주간 앨범차트 1위”. entertain.naver.com (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2020.
  32. ^ “With Love, J - EP by Jessica”. Apple Music (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2020.
  33. ^ coridelent1. “[제시카] 6월 1일 팬미팅 관련 안내 공지”. CORIDEL ENTERTAINMENT (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2020.
  34. ^ “Thailand Fan Meeting 2016 JESSICA 1st PREMIUM LIVE SHOWCASE in BANGKOK”. Hiso Party (bằng tiếng Thái). ngày 3 tháng 6 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2018.
  35. ^ “제시카, 대만 팬미팅 성료...솔로곡 무대+솔직 토크”. entertain.naver.com (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2020.
  36. ^ “ジェシカ、ソロ活動決定後から約1年半…待望の来日公演が6月開催決定”. Kstyle. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2020.
  37. ^ “JESSICA WOWS A PACKED HOUSE FOR SHANGHAI FAN MEETING”. b2talentasia.com (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2018.
  38. ^ Renzxoxo (ngày 5 tháng 11 năm 2016). 'Jessica Jung's' "Fanmeet" In 4 Cities Cancelled”. GoodMoMusic (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2018.
  39. ^ Lee, Jae-hoon (ngày 30 tháng 11 năm 2016). 제시카, 새 앨범 '원더랜드' 12월 공개 (bằng tiếng Hàn). newsis.com. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2017.
  40. ^ Wonderland - EP by Jessica (bằng tiếng Anh), ngày 30 tháng 12 năm 2016, Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2018, truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2018
  41. ^ Kim, Sol-ji (ngày 14 tháng 4 năm 2017). 제시카, 새 앨범 티저 이미지 공개…'봄이라서 그래' (bằng tiếng Hàn). entertain.naver.com. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2017.
  42. ^ “30 Under 30 Asia 2017: Celebrities”. Forbes. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2017.
  43. ^ admin. “[JESSICA] Jessica On Cloud Nine Live in Hong Kong Cancellation”. CORIDEL ENTERTAINMENT (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2018.
  44. ^ “Jessica On Cloud Nine 10th Anniversary Live”. www.jessicaoncloudnineinbkk.com. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2018.
  45. ^ Lloyd Choi (ngày 4 tháng 6 năm 2017), 1st Mini Concert in Taiwan "On Cloud Nine" Jessica Message, Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2020, truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2018
  46. ^ admin. “[제시카] Jessica On Cloud Nine 10th Anniversary Live in Seoul (수정)”. CORIDEL ENTERTAINMENT (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2018.
  47. ^ “Jessica to Bring Her On Cloud Nine Live Tour to Hong Kong this October - (x)clusive★”. (x)clusive★ (bằng tiếng Anh). ngày 23 tháng 8 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2018.
  48. ^ “JESSICA (ジェシカ)"On Cloud Nine" Live in Japan”. JESSICA (ジェシカ)"On Cloud Nine" Live in Japan (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2018.
  49. ^ “Jessica《On Cloud Nine Mini Concert in Macau》20180303”. HK.KPOP.PAGE (bằng tiếng Anh). ngày 5 tháng 3 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2018.
  50. ^ “K-Pop Star Jessica Jung Signs with UTA”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2018.
  51. ^ 美麗佳人, Marie Claire. “台灣Golden Stars準備囉!女神潔西卡Jessica將於10月登台開唱”. Marie Claire 美麗佳人 (bằng tiếng Trung). Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2018.
  52. ^ “Jessica Gets Festive For 'One More Christmas' Music Film, Talks New Plans For 2019”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2019.
  53. ^ Tan, Pakkee (ngày 6 tháng 6 năm 2019). “Jessica and Krystal Jung Are Shooting a New Reality Show In America”. E! Online. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2019.
  54. ^ “[단독] 제시카, 日서 솔로 싱글곡 낸다…한국어 수록곡은 래퍼 기리보이 피처링”. n.news.naver.com (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2019.
  55. ^ “ジェシカ (Jessica), CrazyBoy を迎えた新曲を発表” [Jessica Announces New Song with CrazyBoy]. OKMusic (bằng tiếng Nhật). ngày 13 tháng 9 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2019.
  56. ^ “제시카, 기리보이와 조우..타이틀 '잠들기전 전화해'(공식)” [Jessica Meets Giriboy for "Call Me Before You Sleep"]. Daum (bằng tiếng Hàn). ngày 18 tháng 9 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2019.
  57. ^ “ジェシカ(Jessica) 2年ぶりのファンミーティング開催決定!ローソンチケットにて、本日8月10日(土)10:00より最速先行受付開始! | 株式会社ローソンエンタテインメントのプレスリリース”. prtimes.jp. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2019.
  58. ^ “潔西卡10月19日來會台灣金星!自備面膜.T恤當福利”. 明潮. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2020.
  59. ^ “เจสสิก้า จอง ลัดคิวด่วนจัดงานแฟนมีตติ้งในไทย ล็อกวันรอเจอ 27 ตุลาคม นี้”. kapook.com. ngày 19 tháng 9 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2020.
  60. ^ Canfield, David (ngày 10 tháng 10 năm 2019). “K-pop star Jessica Jung has written a YA novel, and it's already in development for the screen”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2019.
  61. ^ “Young Adult Hardcover (ngày 18 tháng 10 năm 2020)”. The New York Times. tháng 10 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  62. ^ (tiếng Hàn) Bae Sunyoung: 제시카 ‘해피버스데이‘ 5주 출연 끝 7일 하차 (Jessica, After Five Weeks of Appearances in 'Happy Birthday', Will be Withdrawing on 7th), Newsen.com. 5 tháng 6 năm 2010. Truy cập 6 tháng 6 năm 2010.
  63. ^ Girls' Generation's Jessica announces the launch of her own fashion line 'BLANC' Allkpop.com (ngày 6 tháng 8 năm 2014). Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2014.
  64. ^ 吳睿慈 (ngày 29 tháng 7 năm 2017). “Jessica隱藏10年公佈! 「我的本名其實不是鄭秀妍」”. ETNEWS. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2017.
  65. ^ “Turning 30, according to The Jessicas”. Washington Post (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2019.
  66. ^ “With Love, J” (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2016.
  67. ^ “Oricon Albums Chart (Week of ngày 30 tháng 5 năm 2016)”. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2016.
  68. ^ “World Albums”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2016.
  69. ^ “Heatseekers Albums”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2016.
  70. ^ “Gaon Album Chart – May 2016” (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2016.
  71. ^ “QQ "With Love, J" sales Page”. QQ (bằng tiếng Trung). Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2016.
  72. ^ “Oricon Ranking Service 'You Big Tree' (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2016.
  73. ^ *“2016년 12월 Album Chart” (bằng tiếng Hàn). Gaon Chart.
  74. ^ “내친구 해치 (My Friend Haechi) [Original Soundtrack] – Single”. iTunes US Apple. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2013.
  75. ^ “Documentary Shows Top K-Pop Singers Behind the Scenes”. Chosun Ilbo. ngày 2 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2012.
  76. ^ “那件疯狂的小事叫爱情_电影详情_中国票房”. www.cbooo.cn. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2016.
  77. ^ “纽约人在北京 (豆瓣)”. movie.douban.com. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2016.
  78. ^ “SNSD's Jessica and TVXQ's Yunho as Korea's Barbie and Ken 2012”. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2014.
  79. ^ Girls’ Generation Nominated for ’2012 World Music Awards’ and ’2012 SBS MTV Best of the Best’
  80. ^ kpopmap, kpop-map. “Jessica Wins A Popularity Award At Yahoo! Asia Buzz Awards 2015 • Kpopmap”. Kpopmap (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2016.
  81. ^ “Jessica bags China's V Chart Awards”. kpopherald.koreaherald.com. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2016.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]