Nishikori Kei
Tên đầy đủ | 錦織 圭 (にしこり けい) Nishikori Kei | |||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Quốc tịch | Nhật Bản | |||||||||||
Nơi cư trú | Bradenton, Florida, Hoa Kỳ | |||||||||||
Sinh | 29 tháng 12, 1989 Matsue, Shimane, Nhật Bản | |||||||||||
Chiều cao | 1,78 m (5 ft 10 in)[1] | |||||||||||
Lên chuyên nghiệp | 2007 | |||||||||||
Tay thuận | Phải (trái tay bằng hai tay) | |||||||||||
Huấn luyện viên | Brad Gilbert (2010–2011) Dante Bottini (2010–2019) Michael Chang (2014–) Max Mirnyi (2020–) | |||||||||||
Tiền thưởng | 24.317.969 $ | |||||||||||
Đánh đơn | ||||||||||||
Thắng/Thua | 430–210 | |||||||||||
Số danh hiệu | 12 | |||||||||||
Thứ hạng cao nhất | 4 (2 tháng 3 năm 2015) | |||||||||||
Thứ hạng hiện tại | 52 (27 tháng 9 năm 2021) | |||||||||||
Thành tích đánh đơn Gland Slam | ||||||||||||
Úc Mở rộng | Tứ kết (2012, 2015, 2016, 2019) | |||||||||||
Pháp mở rộng | Tứ kết (2015, 2017, 2019) | |||||||||||
Wimbledon | Tứ kết (2018, 2019) | |||||||||||
Mỹ Mở rộng | Chung kết (2014) | |||||||||||
Các giải khác | ||||||||||||
ATP Tour Finals | Bán kết (2014, 2016) | |||||||||||
Thế vận hội | Huy chương Đồng (2016) | |||||||||||
Đánh đôi | ||||||||||||
Thắng/Thua | 27–34 | |||||||||||
Số danh hiệu | 0 | |||||||||||
Thứ hạng cao nhất | 167 (19 tháng 3 năm 2012) | |||||||||||
Thứ hạng hiện tại | 801 (27 tháng 9 năm 2021) | |||||||||||
Thành tích đánh đôi Gland Slam | ||||||||||||
Pháp Mở rộng | Vòng 2 (2011) | |||||||||||
Wimbledon | Vòng 2 (2011) | |||||||||||
Davis Cup | Tứ kết (2014) | |||||||||||
Thành tích huy chương
| ||||||||||||
Cập nhật lần cuối: 24 tháng 4 năm 2021. |
Nishikori Kei (錦織 圭 (Cẩm-Chức Khuê)), sinh ngày 29 tháng 12 năm 1989 tại Matsue, Shimane là vận động viên quần vợt người Nhật Bản. Anh là vận động viên quần vợt châu Á duy nhất trong lịch sử lọt vào top 5 ATP sau khi đạt vị trí số 4 vào tháng 3 năm 2015. Nishikori từng giành 12 danh hiệu đơn, ngoài ra còn là Á quân U.S. Open 2014 (thua Marin Čilić).[2] Tính tới năm 2021, anh chính là vận động viên châu Á duy nhất từng vào chung kết một trận chung kết Grand Slam và cũng như từng tham gia ATP World Tour Finals với 2 lần lọt vào bán kết các mùa giải 2014 và 2016.[3]
Nishikori cũng giành Huy chương Đồng tại Thế vận hội Mùa hè 2016 sau khi đánh bại Rafael Nadal từ Tây Ban Nha, giúp quần vợt Nhật Bản có được huy chương Thế vận hội đầu tiên sau 96 năm tham dự.[4]
Sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Giải trẻ
[sửa | sửa mã nguồn]Nishikori giành chức vô địch năm 2004 tại giải đấu Riad 21 tổ chức ở Rabat. Anh cũng vào đến vòng tứ kết tại Giải Pháp mở rộng 2006 dành cho tay vợt trẻ. Sau đó, anh đã tham gia đánh đôi với Emiliano Massa để giành chức vô địch ở nôi dung đôi nam tại giải đấu đó. Nishikori cũng đã giành Luxion Cup 2007 tổ chức tại Giải quần vợt Sony Ericsson Mở rộng sau khi đánh bại Michael McClune.
Ở giải trẻ, anh có thành tích 73 trận thắng - 37 trận thua ở nội dung đơn nam và 53 trận thắng - 31 trận thua ở nội dung đôi nam, từng giữ vị trí thứ 7 trên bảng xếp hạng thế giới ở nội dung đôi nam vào tháng 7 năm 2006.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Kei Nishikori – Overview – ATP Tour – Tennis”. atptour.com.
- ^ “Japan erupts in celebration of Nishikori – CNN Video”. CNN. ngày 7 tháng 9 năm 2014.
- ^ “Nishikori into semis on ATP World Tour Finals debut”. Sport Asia. ngày 14 tháng 11 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2021.
- ^ “NISHIKORI ENDS JAPAN'S 96-YEAR WAIT FOR AN OLYMPIC TENNIS MEDAL”. International Tennis Federation. ngày 15 tháng 8 năm 2016.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Nishikori Kei trên trang chủ ATP (tiếng Anh)
- Trang chính thức của Nishikori Kei
- Nishikori Kei trên Facebook