Bước tới nội dung

The Weeknd

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
The Weeknd
The Weeknd vào năm 2023
SinhAbel Makkonen Tesfaye
16 tháng 2, 1990 (34 tuổi)
Toronto, Ontario, Canada
Tên khác
  • The Noise
  • Kin Kane[1]
Nghề nghiệp
  • Ca sĩ
  • người viết ca khúc
  • nhà sản xuất thu âm
  • diễn viên
  • doanh nhân
Năm hoạt động2009–nay
Tác phẩm nổi bật
Giải thưởngDanh sách đầy đủ
Websitetheweeknd.com
Sự nghiệp âm nhạc
Thể loại
Hãng đĩa
Chữ ký

Abel Makkonen Tesfaye (tiếng Amhara: አበል መኮነን ተስፋዬ?; sinh ngày 16 tháng 2 năm 1990), được biết đến với nghệ danh The Weeknd, là một ca sĩ, nhạc sĩ sáng tác bài hát và nhà sản xuất thu âm người Canada.[2][3] Anh được nhiều người biết đến nhờ vào cách sản xuất âm nhạc độc đáo, những sáng tạo nghệ thuật và quãng giọng falsetto đặc trưng của anh.[4][5] Các giải thưởng của The Weeknd gồm có 4 giải Grammy, 20 Giải thưởng Âm nhạc Billboard, 22 giải Juno, 6 giải thưởng Âm nhạc Mỹ, 2 giải Video âm nhạc của MTV, và 1 giải Grammy Latin, và 1 đề cử Giải Oscar và 1 giải Primetime Emmy.

Tesfaye sinh ra và lớn lên ở Toronto, và bắt đầu sự nghiệp của mình vào năm 2009 bằng việc phát hành âm nhạc một cách ẩn danh trên YouTube. Hai năm sau, anh đồng sáng lập hãng thu âm XO và phát hành các bản mixtape House of Balloons, ThursdayEchoes of Silence đưa anh đến gần với công chúng nhờ vào phong cách contemporaryalternative R&B gợi cảm giác huyền bí bên trong anh.[6] Năm 2012, Tesfaye ký hợp đồng với Republic Records và phát hành lại mixtape cho album tổng hợp Trilogy. Anh đã sử dụng thể loại dark wave trong album phòng thu đầu tay Kiss Land (2013), và album này mở màn ở vị trí thứ hai trên Billboard 200. Sau album đầu tiên, Tesfaye bắt đầu tham gia sáng tác nhạc phim. Đĩa đơn "Earned It" đến từ nhạc phim Năm mười sắc thái (2015) đoạt giải Grammy cho Trình diễn R&B xuất sắc nhất và nhận được một đề cử giải Oscar cho ca khúc gốc trong phim xuất sắc nhất.[7]

Album thứ hai hơi hướng nhạc pop Beauty Behind the Madness (2015) của Tesfaye đạt được thành công về mặt thương mại và đánh giá chuyên môn, leo lên được vị trí số một ở bảng album Hoa Kỳ. Album còn gặt hái được 2 đĩa đơn quán quân Billboard Hot 100 gồm "Can't Feel My Face" và "The Hills", và giành được giải Grammy cho Album đương đại thành thị xuất sắc nhất cũng như 1 đề cử Album của năm.[8] Album thứ ba đậm chất trap Starboy (2016) của anh đạt được thành công thương mại tương tự, cùng với đĩa đơn cùng tên album (hợp tác với Daft Punk) và đĩa đơn viral "Die for You" leo lên được vị trí số 1, và đem về cho Tesfaye giải Grammy cho Album đương đại thành thị xuất sắc nhất. Tesfaye sẽ trở lại với alternative R&B với EP đầu tay extended play, My Dear Melancholy (2018), và cho ra mắt đĩa đơn top 10 mang tên "Call Out My Name."[9] Anh chuyển sang theo đuổi dòng nhạc new wavedream pop với album phòng thu thứ tư After Hours (2020), và nhận được rất nhiều lời khen ngợi. Album này có các đĩa đơn quán quân gồm đĩa đơn phá kỷ lục xếp hạng và phát trực tuyến "Blinding Lights", "Heartless" và "Save Your Tears."[10] Tesfaye lại thay áo với album thứ năm Dawn FM (2022) thuộc thể loại dance pop, và cho ra mắt đĩa đơn top 10 "Take My Breath." Năm 2023, anh tham gia lên kịch bản và đóng vai chính trong phim truyền hình Thần tượng. Bộ phim tuy nhận được vô số lời chê bai chỉ trích nhưng phần nhạc phim thì lại đạt được thành công thương mại nhất định.

Tesfaye đã trở thành nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất thế giới với hơn 75 triệu bản được tẩu tán,[11] và phá kỷ lục phát trực tuyến cũng như kỷ lục bảng xếp hạng Billboard.[12][13] Anh là nghệ sĩ Canada đầu tiên được trao 4 đĩa đơn chứng nhận kim cương từ Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA), đồng thời là nghệ sĩ đầu tiên đồng thời giữ ba vị trí dẫn đầu trên bảng xếp hạng Hot R&B/Hip-Hop Songs.[14][15] "Blinding Lights" trở thành bài hát được phát trực tuyến nhiều nhất trong lịch sử Spotify và là bài hát trụ hạng lâu nhất đối với nghệ sĩ solo trên Billboard Hot 100.[16][17] Tesfaye được Time liệt vào danh sách một trong những người ảnh hưởng nhất thế giới vào năm 2020, và được Sách Kỷ lục Guinness mệnh danh là "nghệ sĩ nổi tiếng nhất thế giới" vào năm 2023.[18][19] Tesfaye là người ủng hộ bình đẳng chủng tộc và an ninh lương thực, và anh được bổ nhiệm làm Đại sứ thiện chí của Chương trình Lương thực Thế giới vào năm 2021.[20][21]

Thời thơ ấu

[sửa | sửa mã nguồn]

Abel Makkonen Tesfaye sinh ngày 16 tháng 2 năm 1990 tại thành phố Toronto, Ontario. Bố mẹ anh Makkonen and Samra Tesfaye là người Ethiopia nhập cư[22][23][24] và lớn lên tại Scarborough, Toronto.[23][25][26] Anh là con một duy nhất trong nhà, mẹ anh làm nhiều việc để nuôi gia đình, bao gồm làm y tá và phân phát thức ăn cũng như mỗi tối đi học tiếng Anh bổ túc. Sau khi bố mẹ anh chia tay, anh được bà nội và mẹ ruột nuôi dưỡng.[27][28] Trong khoảng thời gian sống với bà, anh học tiếng Amharic, ngôn ngữ của mẹ anh.[29] Anh từng nhiều lần tham gia hoạt động đền thờ Ethiopian Orthodox Tewahedo Church.[22][30] Anh kể lại người ba của mình rằng, "Tôi mơ hồ gặp ba tôi khi tôi còn sáu tuổi, và những lần tiếp theo nữa lúc tôi lên 11 và 12 tuổi, ba của tôi đã có gia đình và đứa con mới. Tôi còn không biết được ba tôi sống ở đâu, tôi chỉ được gặp ba tôi cỡ đúng một đêm. Tôi tin chắc ba là một người đàn ông tuyệt vời. Tôi không bao giờ phán quyết ba tôi. Ba không hề lạm dụng chất nghiện, không hề nghiện rượu, không phải là một tên khốn nạn. Chỉ là ba không thể ở bên mẹ con tôi."[22]

Tesfaye mô tả quãng thời gian niên thiếu của mình trong bộ phim "Kids without the AIDS." Anh kể lại anh từng nghiện marijuana năm 11 tuổi, sau này sử dụng thuốc lắc, oxycodone, xanax, ma tuý, psilocybin, và ketamin. Anh thú nhận mình thường hay ăn trộm vặt ở siêu thị để ra ngoài bán kiếm tiền mua ma tuý sử dụng.[23][31] Anh theo học tại trường West Hill Collegiate InstituteBirchmount Park Collegiate InstituteScarborough. Năm 2007, anh bỏ học và di cư sang Parkdale, Toronto, Abel giải thích nghệ danh của mình lấy cảm hứng từ việc bỏ học, cho biết "bỏ ra đi vào ngày cuối tuần và không bao giờ trở về nữa", mặc dù nhà sản xuất Jeremy Rose nói rằng nghệ danh đó là do anh nghĩ ra. Tuy nhiên nghệ danh lại được lược bỏ nhằm tránh đụng bản quyền với ban nhạc Canada tên The Weekend.[32][33]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

2009–2011: Khởi nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào khoảng tháng 8 năm 2009, Tesfaye đăng tải bài hát "Do It" lên nền tảng YouTube dưới tên tài khoản "AbelOfficial".[34] Sang năm tiếp theo, Tesfaye gặp gỡ nhà sản xuất âm nhạc Jeremy Rose, người đang có tham vọng cho dự án âm nhạc R&B đương đại lúc bấy giờ. Lúc ban đầu sau khi tung ý tưởng cho nhạc sĩ Curtis Santiago, Rose đồng ý làm nhạc cho Tesfaye, anh ban đầu tham gia thể loại nhạc rap freestyle quãng thời gian đầu nhưng sau này quay lại thể loại R&B. Cả hai hợp tác làm album phòng thu, Rose hoà âm và phối khí ba bài hát cho anh – "What You Need", "Loft Music", và "The Morning" – Tesfaye có nhiệm vụ là thu âm ca khúc lại, đến cuối cùng thì đem huỷ bỏ. Rose tặng lại cho Tesfaye lại ca khúc mà chính anh sáng tác với điều kiện là tên của anh phải được credit lại.[35] Vào tháng 12 năm 2010, Tesfaye đồng ý đăng tải lại miễn phí ba bài hát "What You Need", "Loft Music" và "The Morning" lên YouTube dưới một cái tên khác nữa là "xoxxxoooxo", chính kênh này về sau đổi lại thành "the Weeknd".[36] Lúc đó danh tính của anh vẫn còn mịt mờ với công chúng.[37][38] Bài hát thu hút sự chú ý từ cư dân mạng, và được nam rapper cùng thời vừa nổi tiếng Drake quảng bá trên một bài đăng blog.[35][39] Các bài hát mau chóng phủ sóng trên khắp mặt báo, bao gồm tờ tạp chí PitchforkThe New York Times. Trước khi phát sinh cái tên nghệ danh the Weeknd, anh sử dụng biệt danh của the Noise và Kin Kane.[22] Khi Tesfaye lần đầu tự sáng tác nhạc, anh gia nhập American Apparel. Bởi vì vấn đề danh tính còn bí mật, những người làm chung của anh chỉ được nghe nhạc mà không hay biết rằng là của anh.[40][41][42]

Vào năm 2011, Tesfaye kí hợp đồng với đối tác độc quyền âm nhạc Sal SlaibyAmir Esmailian, rồi sáng lập ra hãng thu XO Records.[43] Vào 21 tháng 3 năm 2011, XO Records phát hành đĩa album phòng thu đầu tiên của anh có tên là House of Balloons.[44][45][46] Đĩa nhạc này bao gồm phần sản xuất của IllangeloDoc McKinney, và bao gồm cả phần sản xuất trước đó của Rose cho dù anh không nhận bất cứ credit nào cho sáng tác này.[35] House of Balloons nhận được lời khen từ giới phê bình.[47] Nó được xướng tên vào mười đề cử của giải Polaris Music năm 2011.[48]

Một trong số những màn trình diễn đầu tiên của anh là tại hội thảo học sinh da đen tại đại học University of Toronto vào tháng 4 năm 2011.[42][49]

Vào tháng 7 năm 2011, Tesfaye đi lưu diễn tại Toronto, màn trực tiếp công khai của anh đầu tiên là tại Mod Club Theatre kéo dài đến gần 90 phút và Drake có mặt ở đây để xem màn trình diễn này.[50] Tại đây, Drake ngỏ ý hợp tác với Tesfaye. Tesfaye đã đồng ý và tham gia phần mở đầu cho các show diễn của Drake tại Molson Canadian Amphitheatre, và tại hội OVO Fest thường niên vào tháng 7 năm 2011.[51] Vào mùa hè năm 2011, Tesfaye đóng góp phần sáng tác của mình cho bốn bài hát của Drake ở album phòng thu Take Care, vừa là nhạc sĩ vừa là ca sĩ hợp tác cho bài hát "Crew Love".[52]

Tesfaye tự nhận mình là một người rất hạn chế tham gia phỏng vấn trực tiếp, anh chỉ chọn liên lạc qua đường Twitter, bởi vì tính cách của anh là rụt rè và hướng nội.[53][54] Cho đến thời điểm hiện tại, Tesfaye cực kì ít có mặt tại các buổi phỏng vấn, chỉ đồng ý nói chuyện vào những dịp rất quan trọng.

Bản thu thứ ba của Tesfaye, Echoes of Silence, ra mắt vào ngày 21 tháng 12 năm 2011, một năm sau khi debut chính thức.[55]. Noise EP gồm có mười bài hát cũng được phát hành miễn phí trên mạng xã hội vào thời điểm này, trước khi anh chính thức đi vào album phòng thu đầu tiên.[56] Vào ngày 31 tháng 10 năm 2012, Tesfaye đăng tải lên Twitter rằng "Noise EP thực chất là một chuỗi bài hát bị rò rỉ từ nhà hợp tác cũ, người ta bên ngoài phát hiện AFTER HOB bị bỏ đó. Bản viết nháp demo thực ra là hồi còn teen để ghi chú ý thôi mà. xo."[57]

2012-2014: TrilogyKiss Land

[sửa | sửa mã nguồn]
Tesfaye trình diễn tại lễ hội Coachella Valley Music and Arts Festival vào năm 2012

Vào tháng 4 năm 2012, Tesfaye bắt đầu tour lưu diễn quốc tế đầu tiên của anh, gồm cả buổi biểu diễn tại Coachella,[58] những show diễn bán sạch vé tại Bowery Ballroom ở thành phố New York Hoa Kỳ. Phần trình diễn của anh nhận được đánh giá tích cực đến từ tạp chí Rolling Stone.[58][59] Tesfaye còn tham gia nhiều lễ hội âm nhạc Châu Âu, gồm Primavera Sound tại Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha,[60] và lễ hội Wireless Festival tại Vương Quốc Anh.[61][62][63] Vào tháng 9, Tesfaye ký hợp đồng hãng đĩa Republic Records, và XO trở thành hãng thu con của anh.[64]

Vào ngày 13 tháng 11 năm 2012, Tesfaye phát hành album phòng thu kết hợp Trilogy gồm nhiều ca khúc được remix và làm lại từ bản thu năm 2011 của anh, kèm theo ba bài hát mới.[25][65][66] Album ghi nhận Rose là nhà sản xuất và nhà sáng tác cho ba bài hát từ House of Balloons, ở album trước đó thì ông không được chính thức ghi nhận.[67] Trilogy ra mắt ở hạng tư ở bảng xếp hạng Billboard 200 trong tuần đầu bán được 86 nghìn bản. Album này còn ra mắt ở vị trí thứ năm tại Canadian Albums Chart, cùng lượng doanh số trên.[68][69] Album về sau nhận được chứng nhận bạch kim đến từ Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) và bạch kim x2 bởi Music Canada.[70][71] Album gặt hái được cho Tesfaye một đề cử hạng mục bình chọn Sound of 2013 của BBC.[72]

Tesfaye biểu diễn tại Massey Hall vào tháng 10 năm 2013

Vào ngày 17 tháng 5 năm 2013, Tesfaye phát hành bài hát tiêu đề cho album phòng thu debut Kiss Land,[73] và ấn định ngày ra mắt album là ngày 10 tháng 9.[74] Sau khi được phát hành, album ra mắt ở vị trí á quân tại bảng xếp hạng Billboard 200, với doanh số tiêu thụ là 96 nghìn bản,[75] và nhìn chung đều được các chuyên gia âm nhạc đánh gia cao.[76] Album về sau được các đĩa đơn quảng bá kèm "Belong to the World", "Love in the Sky" và "Live For" kết hợp cùng với Drake. Tesfaye thực hiện chuyến lưu diễn từ 6 tháng 9 đến 25 tháng 10.[77] Tính đến tháng 8 năm 2015, album được tiêu thụ tổng cộng 273 nghìn bản tại Hoa Kỳ.[78] Vào 10 tháng 8 năm 2020, gần bảy năm sau được phát hành, Kiss Land đặt chân lên vị trí đầu bảng ở BXH iTunes R&B.[79]

Vào tháng 11 năm 2013, Tesfaye tham gia mở màn cho nam ca sĩ Justin Timberlake tại chuyến lưu diễn The 20/20 Experience World Tour.[80] Sau đó, anh tham gia đóng góp nhạc chủ đề cho The Hunger Games: Catching Fire (2013), sáng tác "Devil May Cry" và single chủ đề thứ hai của series "Elastic Heart" cho SiaDiplo.[81]

Vào tháng 2 năm 2014, Tesfaye tham gia phối nhạc đĩa đơn "Drunk in Love" của Beyoncé đến từ phòng thu cùng tên nghệ danh. Giữ lại chủ đề và ý tưởng của bài hát, anh trình bày nội dung qua góc nhìn của một nam giới.[82] Vào 25 tháng 8, Tesfaye kết hợp với Ariana Grande trong bài hát "Love Me Harder" nằm ở album phòng thu thứ hai của cô, My Everything. Bài hát được phát hành vào ngày 30 tháng 9 dưới dạng đĩa đơn thứ tư của album, đạt ở vị trí thứ bảy trên BXH Billboard Hot 100.[83]

Tour lưu diễn quảng bá đầu tiên của Tesfaye King of the Fall Tour được biểu diễn khắp nước Mỹ trong tháng 9 và tháng 10 năm 2014, tour này nhận được hỗ trợ từ Schoolboy QJhené Aiko.[84] Kéo theo tour diễn, hai bài hát "Often" và "King of the Fall" được phát hành. Nhiều người dự đoán đây chính là những single mở đầu cho album phòng thu thứ hai sắp tới của anh, Beauty Behind the Madness (2015).[85] Vào 23 tháng 12, Tesfaye ra mắt "Earned It" nằm trong phần nhạc nền của bộ phim Năm mươi Sắc Thái (2015). Bài hát đạt vị trí thứ ba trên BXH Billboard Hot 100, mang lại cho Tesfaye đề cử đầu tiên của giải thưởng Giải Oscar ở hạng mục Best Original Song.[86] Bài hát đoạt giải Best R&B Performance và được đề cử ở Best R&B SongBest Song Written for Visual Media ở lễ trao giải Giải Grammy lần thứ 58.[87]

2015–2017: Beauty Behind the MadnessStarboy

[sửa | sửa mã nguồn]
Tesfaye biểu diễn tại Bumbershoot vào năm 2015

Vào ngày 27 tháng 5 năm 2015, Tesfaye phát hành đĩa đơn thứ hai từ Beauty Behind the Madness, "The Hills".[88] Đĩa đơn ra mắt ở vị trí thứ hai mươi trên BXH Billboard Hot 100, và đạt ở vị trí quán quân, trở thành đĩa đơn thứ hai của Tesfaye đạt được vị trí này (sau "Can't Feel My Face"). Vào tháng 6 năm 2019, "The Hills" được chứng nhận kim cương từ RIAA, trở thành đĩa đơn đầu tiên của Tesfaye được chứng nhận này.[89][90]

Vào tháng 6 năm 2015, sau khi giành giải thưởng Centric Award tại lễ trao giải BET Awards, Tesfaye biểu diễn "Earned It" cùng với Alicia Keys.[91] Vào ngày 8 tháng 6, anh phát hành ca khúc mới "Can't Feel My Face" làm đĩa đơn thứ ba của album. Ca khúc trước đó bị rò rỉ vào tháng 5 nhưng được phát hành làm ngay sau phần trình diễn của Tesfaye ở Apple Worldwide Developers Conference.[92] Đĩa đơn thứ ba ra mắt ở vị trí thứ hai mươi tư trên BXH Billboard Hot 100, và đạt vị trí quán quân, trở thành ca khúc đầu tiên của anh đạt được vị trí này trước cả đĩa đơn thứ hai "The Hills", đồng thời là ca khúc top 10 thứ ba trong sự nghiệp của Tesfaye ở Hoa Kỳ.[93][94] Ca khúc được đề cử thu âm của nămtrình diễn pop solo xuất sắc nhất tại lễ trao giải Grammy lần thứ 58.[95] Tesfaye được vinh danh là nghệ sĩ đầu tiên dành ngôi quán quân ở cả ba bảng xếp hạng Hot R&B/Hip-Hop Songs của Billboard tại cùng một thời điểm.[96] Anh cũng được công bố là một trong những gương mặt đại diện âm nhạc của dịch vụ phát trực tuyến Apple Music, cùng với Drake.[97] Tại lễ trao giải 2015 MTV Video Music Awards, Apple ra mắt đoạn phim quảng cáo gồm hai phần có sự góp mặt của Tesfaye, và sự xuất hiện đặc biệt từ John Travolta.[98] Vào tháng 7, Tesfaye tiên phong biểu diễn tại lễ hội FVDED in the Park tại Surrey, British Columbia.[99] Vào 29 tháng 6, Tesfaye góp mặt trong album phòng thu thứ hai của Meek Mill, Dreams Worth More Than Money (2015), trong ca khúc "Pullin' Up".[100]

Album phòng thu thứ hai của Tesfaye Beauty Behind the Madness được phát hành vào ngày 28 tháng 8 năm 2015, ra mắt ở vị trí số một tại BXH Billboard 200, tiêu thụ được 412.000 đơn vị trong tuần đầu.[101][102] Album leo lên vị trí top 10 tại mười quốc gia, trong đó đạt được vị trí quán quân tại các nước Canada, Úc, Norway, và Vương Quốc Anh.[103][104] Album được Tesfaye quảng bá rầm rộ trong nhiều lễ hội âm nhạc mùa hè, gồm Lollapalooza, Hard Summer Music Festival, và lễ hội Bumbershoot.[105] Anh tiến hành chuyến lưu diễn The Madness Fall Tour đầu tiên rộng khắp Hoa Kỳ, bắt đầu từ tháng 11 và kết thúc vào tháng 12.[106][107] Album đã được chứng nhận đĩa bạch kim kép tại Hoa Kỳ và bán được 1,5 triệu bản trên toàn thế giới.[108] Đây là album được phát trực tuyến nhiều nhất trong năm 2015, với hơn 60 triệu lượt phát trực tiếp,[109] và được xếp hạng trên nhiều danh sách album của năm.[110] Ba đĩa đơn trước phát hành album đã được chứng nhận bạch kim tại Hoa Kỳ.[111] Album thắng giải album Urban Contemporary xuất sắc nhất và được đề cử album của năm tại lễ trao giải Grammy lần thứ 58.[112]

Vào ngày 4 tháng 9 năm 2015, Tesfaye góp mặt vào album đầu tay của Travis Scott, Rodeo, ở ca khúc "Pray 4 Love".[113] Vào ngày 10 tháng 10, Tesfaye xuất hiện tại Saturday Night Live cùng với nữ diễn viên Amy Schumer, trình diễn với vai trò khách mời âm nhạc của chương trình.[114][115] Đây là trình diễn đầu tiên của anh với vai trò nghệ sĩ solo, sau khi cùng Ariana Grande biểu diễn "Love Me Harder".[115] Vào ngày 18 tháng 12, Tesfaye góp giọng cho đĩa đơn của Belly, "Might Not" ở tập thu thứ tám, Up For Days.[116]

Vào ngày 14 tháng 2 năm 2016, Tesfaye góp giọng trong album phòng thu thứ bảy của Kanye West, The Life of Pablo ở bài hát "FML".[117][118] Đây là lần thứ hai hai người hợp tác chung, trước đó West tham gia sáng tác và sản xuất đĩa đơn "Tell Your Friends" của Tesfaye nằm trong album Beauty Behind the Madness. Vào ngày 1 tháng 3, Tesfaye góp giọng cho đĩa đơn của Future, "Low Life" nằm trong album Evol.[119] Vào ngày 23 tháng 4, anh xuất hiện trong album thứ sáu của Beyoncé, Lemonade ở ca khúc "6 Inch".[120] Vào ngày 26 tháng 8, Tesfaye hợp tác với Cashmere Cat trong ca khúc "Wild Love" cùng Francis and the Lights, đây là đĩa đơn dẫn đường cho album phòng thu đầu tay của Cashmere Cat, 9 (2017).[121]

Vào tháng 9 năm 2016, Tesfaye công bố album phòng thu thứ ba của anh, Starboy, sẽ ra mắt vào ngày 25 tháng 11 và lần này có sự hợp tác với nhà soạn nhạc điện tử người Pháp Daft Punk.[122][123] Anh phát hành bài hát cùng tên, hợp tác với Daft Punk vào 21 tháng 9.[124] Bài hát ra mắt ở vị trí thứ 40 tại BXH Billboard Hot 100, và giành được vị trí quán quân, trở thành đĩa đơn số một thứ ba của Tesfaye ở BXH này.[125] Tính đến tháng 3 năm 2020, bài hát được chứng nhận bạch kim 8× từ RIAA.[126] Màn hợp tác thứ hai của họ, "I Feel It Coming" ra mắt vào ngày 24 tháng 11 và đạt vị trí thứ tư tại Billboard Hot 100.[127] Vào ngày 1 tháng 10, Tesfaye lần thứ hai xuất hiện tại Saturday Night Live dưới vai trò là khách mời cùng với nữ diễn viên Margot Robbie. Trong chương trình, anh biểu diễn "Starboy" và "False Alarm".[128] Vào ngày 23 tháng 11, anh phát hành phim ngắn M A N I A được đạo diễn bởi Grant Singer, trích một số bài hát trong album, gồm "All I Know" có sự góp giọng của Future, "Sidewalks" hợp tác với Kendrick Lamar, "Secrets" và "Die for You".[129][130] Sau khi được phát hành, album đạt được vị trí quán quân tạiBillboard 200 với 348 nghìn đơn vị tiêu thụ, trở thành album thứ hai quán quân liên tiếp của Tesfaye.[131] Tính đến tháng 1 năm 2019, album được chứng nhận 3x bạch kim bởi RIAA.[132] Album đoạt giải Album Urban Contemporary xuất sắc nhất tại lễ trao giải Grammy lần thứ 60, đánh dấu lần thứ hai của Tesfaye chiến thắng ở hạng mục này.[133]

Vào ngày 15 tháng 2 năm 2017, Tesfaye hợp tác với đĩa đơn đầu tay của Nav "Some Way", cũng là đĩa đơn mở đầu cho mixtape cùng tên nghệ danh.[134] Vào ngày 24 tháng 2, anh xuất hiện trong album phòng thu thứ sáu của Hndrxx, ở ca khúc "Comin Out Strong".[135] Vào ngày 19 tháng 4, Tesfaye xuất hiện ở album và single thứ hai cùng tên với nhau của Lana Del Rey, Lust for Life.[136][137] Vào ngày 15 tháng 8, anh hợp tác với French Montana ở ca khúc "A Lie", đĩa đơn thứ ba từ album phòng thu thứ hai Jungle Rules. Sau đó, anh xuất hiện trong video âm nhạc do Virgil Abloh làm đạo diễn cho ca khúc "XO Tour Llif3" của Lil Uzi Vert cùng với Nav. Cuối cùng, anh góp mặt trong album đầu tay của Lil Uzi Vert, Luv Is Rage 2 ở ca khúc "UnFazed" và album phòng thu thứ mười một của Gucci Mane, Mr. Davis ở ca khúc "Curve".

2018–2020: My Dear Melancholy, và After Hours

[sửa | sửa mã nguồn]
Tesfaye biểu diễn ở Hồng Kông vào tháng 11 năm 2018

Vào ngày 2 tháng 2 năm 2018, Tesfaye tham gia sáng tác nhạc phim cho Black Panther ở bài hát "Pray for Me" với sự hợp tác của Kendrick Lamar. Bài hát được phát hành ở đĩa đơn thứ ba của album nhạc phim và đạt vị trí thứ bảy trên BXH Billboard Hot 100.[138][139]

Vào ngày 30 tháng 3 năm 2018, Tesfaye phát hành EP mở rộng đầu tay My Dear Melancholy,[140][141] sau khi tin tức về dự án bị rò rỉ.[142][143] EP ra mắt ở vị trí quán quân trên BXH Billboard 200 với 169.000 đơn vị được bán ra, trở thành album quán quân thứ ba liên tiếp của Tesfaye và là album ngắn nhất tính theo số lượng ca khúc đứng đầu bảng xếp hạng trong 8 năm.[144] Vào ngày 6 tháng 4, Tesfaye phát hành đĩa đơn chính của EP "Call Out My Name", đạt vị trí thứ tư trên Billboard Hot 100.[145][146] Vào ngày 13 tháng 4, anh đã tổ chức lễ hội Coachella Valley Music and Arts Festival lần đầu tiên.[147][148]

Vào ngày 6 tháng 6 năm 2018, Tesfaye đã công bố chương trình radio Apple Music 1 mới của mình tên là Memento Mori. Tập đầu tiên được phát hành hai ngày sau đó.[149] Sau đó anh thể hiện hai bài hát trong album phòng thu thứ ba Astroworld của Travis Scott mang tựa đề "Skeletons" và "Wake Up" vào ngày 3 tháng 8 năm 2018.[150] Vào ngày 21 tháng 11, anh đã phát hành album thành công nhất đầu tiên The Weeknd tại Nhật Bản.[151] Để hỗ trợ cho album và EP My Dear Melancholy, anh đã bắt đầu chuyến lưu diễn hòa nhạc thứ sáu mang tên the Weeknd Asia Tour. Chuyến lưu diễn bắt đầu vào ngày 30 tháng 11 năm 2018 và kết thúc vào ngày 18 tháng 12 năm 2018. Tesfaye đã thực hiện sáu buổi biểu diễn ở Châu Á. Vào ngày 11 tháng 1 năm 2019, Tesfaye góp giọng trong bài hát "Lost in the Fire" của Gesaffelstein, đĩa đơn thứ hai trong album phòng thu thứ hai Hyperion của anh.[152] Vào ngày 18 tháng 4, anh phát hành "Power Is Power" cùng với SZATravis Scott, đĩa đơn chính của nhạc phim lấy cảm hứng từ Game of Thrones.[153][154]

Vào ngày 24 tháng 11 năm 2019, Tesfaye đã giới thiệu đĩa đơn "Blinding Lights" của mình thông qua quảng cáo của hãng Mercedes-Benz.[155] Vào ngày 27 tháng 11, anh phát hành "Heartless" làm đĩa đơn chính trong album phòng thu thứ tư của mình. Bài hát ra mắt ở vị trí thứ ba mươi hai trên Billboard Hot 100 và đạt vị trí số một, trở thành đĩa đơn quán quân thứ tư của Tesfaye.[156][157] "Blinding Lights" được phát hành hai ngày sau khi phát hành "Heartless" vào ngày 29 tháng 11. Đĩa đơn ra mắt ở vị trí thứ 11 trên Billboard Hot 100 và đạt vị trí số một, trở thành đĩa đơn quán quân thứ năm của Tesfaye.[158] "Blinding Lights" sau đó đã trở thành bài hát đầu tiên trong lịch sử của bảng xếp hạng giữ một vị trí trong top 10 trong cả năm.[159] Nó cũng trở thành bài hát xếp hạng dài nhất mọi thời đại trên Hot 100 với 90 tuần, và rời khỏi BXH sau tuần lễ ngày 11 tháng 9 năm 2021.[160][161] Vào ngày 23 tháng 11 năm 2021, "Blinding Lights" được xếp hạng là bản hit Hot 100 hay nhất số 1 trong mọi thời đại của Billboard, vượt qua "The Twist" của Chubby Checker.[162] Vào ngày 1 tháng 1 năm 2023, Blinding Lights trở thành bài hát được phát trực tuyến nhiều nhất trên Spotify với 3,3 tỷ lượt phát trực tuyến.[163]

Vào ngày 19 tháng 2 năm 2020, Tesfaye tiết lộ rằng album phòng thu thứ tư của anh sẽ có tựa đề After Hours và sẽ được phát hành vào ngày 20 tháng 3.[164] Anh cũng phát hành ca khúc chủ đề cùng tên với album dưới dạng đĩa đơn quảng cáo. Vào ngày 7 tháng 3, anh xuất hiện lần thứ ba với tư cách khách mời âm nhạc trên Saturday Night Live, cùng với nam diễn viên Daniel Craig. Trong chương trình, anh đã biểu diễn "Blinding Lights" và ra mắt ca khúc "Scared to Live".[165] Tesfaye phát hành đĩa đơn thứ ba của album "In Your Eyes" vào ngày 24 tháng 3. Ca khúc đạt vị trí thứ mười sáu trên Billboard Hot 100.[166]

Vừa ngay sau khi phát hành,[167] After Hours lập tức chiếm lấy ngôi vị quán quân trên bảng xếp hạng Billboard 200, thu về 444.000 đơn vị, đánh dấu album quán quân thứ tư liên tiếp của Tesfaye.[168] Nó trở thành album R&B được phát trực tuyến nhiều nhất mọi thời đại, vượt qua Starboy của chính anh.[169][10] Trong tuần xếp hạng đầu tiên của album, Tesfaye cũng trở thành nghệ sĩ đầu tiên đồng thời dẫn đầu các bảng xếp hạng Billboard 200, Billboard Hot 100, Billboard Artist 100, Hot 100 Songwriters và Hot 100 Productions, đồng thời lặp lại vị trí dẫn đầu vào tuần sau.[170][171] Phiên bản deluxe của After Hours được phát hành vào ngày 29 tháng 3 năm 2020 và bao gồm các bài hát mới "Nothing Compares", "Missed You" và "Final Lullaby".[172]


Vào ngày 7 tháng 8 năm 2020, Tesfaye góp giọng trong đĩa đơn "Smile" của nam rapper Juice Wrld quá cố trong album di cảo đầu tiên Legends Never Die của anh. Vào ngày 28 tháng 8, anh góp mặt trong đĩa đơn "Over Now" của Calvin Harris. Vào ngày 30 tháng 10, Tesfaye xuất hiện trong bài hát "Off the Table" của Ariana Grande trong album phòng thu thứ sáu của cô.[173][174] Cùng ngày, anh xuất hiện trong ca khúc "No Nightmares" của Oneohtrix Point Never trong album phòng thu thứ chín Magic Oneohtrix Point Never, mà anh cũng điều hành sản xuất cùng OPN.[175] Vào ngày 5 tháng 11, anh xuất hiện trong bản phối lại "Hawái" của Maluma, được đề cử cho Màn trình diễn/kết hợp đô thị xuất sắc nhất tại Lễ trao giải Grammy Latin lần thứ 22.[176][177] Vào ngày 10 tháng 12, anh đã biểu diễn tại Jingle Ball của đài iHeartRadio.[178]

2021–nay: Dawn FMThe Idol

[sửa | sửa mã nguồn]
Tesfaye biểu diễn tiết mục ở Super Bowl LV halftime show ở sân vận động Raymond James Stadium vào năm 2021

Vào ngày 5 tháng 2 năm 2021, Tesfaye phát hành album tổng hợp bản hit hay nhất thứ hai The Highlights. Album ra mắt ở vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Billboard 200 của Hoa Kỳ, trở thành album tổng hợp có thứ hạng cao nhất của Tesfaye và là album ra mắt tuần đầu tiên lớn nhất đối với một album thành công nhất kể từ Complete Loaded: God's Country (2019).[179]

Tesfaye đã biểu diễn chương trình giữa giờ nghỉ giải lao Super Bowl LV vào ngày 7 tháng 2 năm 2021, trở thành nghệ sĩ solo người Canada đầu tiên dẫn đầu chương trình.[180][181][182][183] Theo ghi nhận, anh đã chi 7 triệu đô la Mỹ tiền túi của mình cho buổi biểu diễn Super Bowl.[184] Các đánh giá về buổi biểu diễn nhìn chung là tích cực.[185][186][187][188][189][190] Chương trình đã dẫn đến sự gia tăng đột biến về lượt phát trực tuyến và lượt tải xuống cho album After Hours của Tesfaye cũng như bảy bài hát khác mà anh đã biểu diễn.[191][192] Chương trình giữa giờ nghỉ giải lao đã giành được ba đề cử tại Giải thưởng Primetime Emmy lần thứ 73: Chương trình tạp kỹ đặc biệt xuất sắc (Trực tiếp), Thiết kế ánh sáng/Chỉ đạo chiếu sáng xuất sắc cho Chương trình tạp kỹ đặc biệt và Chỉ đạo kỹ thuật xuất sắc, kỹ thuật quay phim, Điều khiển video cho chương trình đặc biệt.[193]

Vào tháng 3 năm 2021, Tesfaye tái phát hành mixtape đầu tay House of Balloons ở dạng chính thức để kỷ niệm 10 năm ngày phát hành.[194] Với sự hợp tác của kiến trúc sư Daniel Arsham, hàng hóa phiên bản giới hạn cũng được phát hành cùng với đợt phát hành lại. Sáu tháng sau, vào tháng 8, Tesfaye phát hành lại mixtape thứ hai năm 2011 của mình Thursday để kỷ niệm 10 năm ngày phát hành.[195] Giống như House of Balloons, hàng hóa phiên bản giới hạn đã được phát hành cùng với lần phát hành lại, do nghệ sĩ Mr. Yanen thiết kế.[196] Bốn tháng sau, vào tháng 12, Tesfaye phát hành lại mixtape cuối cùng năm 2011 Echoes of Silence để kỷ niệm 10 năm ngày phát hành.[197] Tiếp nối hai mixtape trước đó, hàng hóa phiên bản giới hạn đã được phát hành cùng với đợt phát hành lại, do họa sĩ minh họa Hajime Sorayama thiết kế.[198] Ngày 23 tháng 4, Tesfaye tung bản remix của "Save Your Tears" hợp tác với Ariana Grande, đánh dấu lần hợp tác thứ ba.[199] Bản phối lại đã đưa bài hát lên vị trí đầu bảng xếp hạng Billboard Hot 100 trên bảng xếp hạng ngày 8 tháng 5 năm 2021, trở thành bản hit quán quân thứ sáu của cả hai nghệ sĩ.[200] Tesfaye bắt đầu hé lộ âm nhạc mới vào tháng 5 năm 2021. Khi được hỏi về album mới trong một cuộc phỏng vấn với Variety, anh giải thích rằng "nếu bản thu âm cuối cùng là After Hours nghĩa là vào ban đêm, thì bình minh (The Dawn) sẽ đến".[201] Vào ngày 11 tháng 5, Tesfaye biểu diễn "Save Your Tears" tại lễ trao giải Brit. Anh cũng đã nhận Giải thưởng Brit đầu tiên dành cho Nam nghệ sĩ solo quốc tế do cựu đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ Michelle Obama trao cho anh.[202][203] Vào ngày 24 tháng 5, Tesfaye biểu diễn "Save Your Tears" tại Billboard Music Awards. Anh đã được đề cử cho kỷ lục 16 giải thưởng và giành được 10 giải, bao gồm Nghệ sĩ hàng đầu và Bài hát Top Hot 100. Khi nhận giải thưởng của mình, Tesfaye tiếp tục giới thiệu về âm nhạc mới bằng cách nói "After Hours đã xong và The Dawn sắp đến".[204] Vào ngày 28 tháng 5, anh đã biểu diễn remix của "Save Your Tears" tại iHeartRadio Music Awards cùng Ariana Grande. Vào ngày 25 tháng 6, Tesfaye góp giọng trong đĩa đơn "You Right" của Doja Cat trong album phòng thu thứ ba Planet Her.[205] Vào ngày 22 tháng 7, anh xuất hiện trong đĩa đơn "Better Believe" của Belly cùng với Young Thug từ album phòng thu thứ ba See You Next Wesnesday.[206]

Vào ngày 2 tháng 8 năm 2021, Tesfaye phát hành một đoạn nhạc mới trên mạng xã hội.[207] Anh xuất hiện trên trang bìa của GQ số tháng 9 năm 2021, đánh dấu lần xuất bản toàn cầu đầu tiên của tạp chí.[208][209] Sau đó, hợp tác với NBC Sports và Thế vận hội Mùa hè 2020, Tesfaye đã công bố đĩa đơn "Take My Breath", được phát hành vào ngày 6 tháng 8.[210][211] Cuối tháng đó, anh xuất hiện trong album phòng thu thứ 10 của Kanye West Donda ở ca khúc "Hurricane", đã giành được giải Trình diễn rap melody xuất sắc nhất tại Lễ trao giải Grammy thường niên lần thứ 64.[212]

Vào ngày 4 tháng 10 năm 2021, trong một tập chiếu của Memento Mori, Tesfaye tiết lộ rằng album phòng thu thứ năm của anh đã hoàn thành và anh đang chờ đợi một "một vài nhân vật đóng vai trò then chốt cho câu chuyện."[213] Vào ngày 18 tháng 10, Tesfaye thông báo rằng chuyến lưu diễn sắp tới của anh, ban đầu có tên là After Hours Tour, sẽ được tổ chức hoàn toàn tại các sân vận động do hạn chế về đấu trường và dự kiến bắt đầu vào tháng 7 năm 2022.[214] Chuyến lưu diễn được đổi tên thành After Hours til Dawn Tour, kết hợp chủ đề từ hai album phòng thu thứ tư và thứ năm của anh.[215][216]

Vào ngày 22 tháng 10 năm 2021, Tesfaye xuất hiện trong đĩa đơn "Moth to a Flame" của Swedish House Mafia từ album phòng thu đầu tay Paradise Again của họ.[217] Ngày 5 tháng 11, anh xuất hiện trong đĩa đơn "One Right Now" của Post Malone từ album phòng thu thứ tư Twelve Carat Toothache.[218][219] Ngày 11 tháng 11, anh góp mặt trong đĩa đơn "La Fama" của Rosalía từ album phòng thu thứ ba Motomami của cô.[220][221] Ngày 16 tháng 12, Tesfaye được giới thiệu trong đĩa đơn "Tears in the Club" của FKA Twigs từ mixtape đầu tay Caprisongs của cô.[222][223] Ngày hôm sau, 17 tháng 12, anh góp mặt trong đĩa đơn "Poison" của Aaliyah trong album di cảo Unstoppable của cô.[224][225]

Tesfaye phát hành album phòng thu thứ năm Dawn FM vào ngày 7 tháng 1 năm 2022.[226] Sau khi phát hành, album đã ra mắt ở vị trí thứ hai trên Billboard 200 với 148.000 đơn vị, đánh dấu vị trí thứ tám trong top 10 của Tesfaye và là album thứ hai không liên tiếp của anh ra mắt ở vị trí thứ hai.[227][228] Anh cũng phá kỷ lục về số bài hát đồng thời của một nam nghệ sĩ solo trên Billboard Global 200, với 24 bài hát trên bảng xếp hạng.[229][230] Ngoài "Take My Breath", Dawn FM còn được hỗ trợ quảng bá bởi các đĩa đơn "Sacrifice" và "Out of Time".[231][232] Ngày 26 tháng 2, Tesfaye ra mắt The Dawn FM Experience, một chương trình âm nhạc truyền hình đặc biệt hợp tác với Amazon Prime Video.[233]

Ngôi nhà ma ám của The Weeknd trở thành một phần của Universal's Halloween Horror Nights.

Vào ngày 20 tháng 3, Tesfaye đã tham gia một tập của phim hoạt hình The Simpsons.[234] Vào ngày 18 tháng 4, anh đã tổ chức Lễ hội Âm nhạc và Nghệ thuật Thung lũng Coachella lần thứ hai, biểu diễn cùng với Swedish House Mafia.[235][236] Vào ngày 26 tháng 7 năm 2022, Tesfaye thông báo rằng anh sẽ tổ chức một ngôi nhà ma ám tại Universal Studios Hollywood, là một phần của Đêm kinh dị Halloween của Universal được tổ chức vào mỗi dịp Halloween.[237] Bài hát "Nothing Is Lost (You Give Me Strength)" của anh trong Avatar: The Way of Water (Original Motion Picture Soundtrack) được phát hành vào ngày 16 tháng 12 năm 2022.

Vào ngày 24 tháng 2 năm 2023, nhờ vào sức mạnh quan tâm và tốc độ viral trên mạng xã hội của bài hát "Die for You" năm 2016, nó đã quay trở lại bảng xếp hạng vào năm 2022 và leo lên đến thứ hạng mới là vị trí thứ 6 trên BXH Billboard Hot 100 sáu năm sau khi phát hành. Một bản remix của bài hát có sự góp mặt của Ariana Grande đã được phát hành, đánh dấu lần hợp tác thứ tư của họ.[238][239] Kết quả là bản phối đã góp phần đưa bài hát lên ngôi quán quân bảng xếp hạng vào số ngày 11 tháng 3 năm 2023, trở thành bản hit quán quân thứ bảy của cả hai nghệ sĩ.[240] Vào ngày 27 tháng 2 năm 2023, sau thành công của bản phối lại, Tesfaye trở thành nghệ sĩ đầu tiên vượt qua 100 triệu người nghe hàng tháng trên Spotify.[241]

Vào ngày 3 tháng 3 năm 2023, Tesfaye phát hành album biểu diễn trực tiếp đầu tiên của mình, mang tên Live at SoFi Stadium bao gồm các bản ghi lại âm từ bộ phim hòa nhạc cùng tên trên HBO của anh, giới thiệu buổi hòa nhạc cuối cùng của chặng Bắc Mỹ trong chuyến lưu diễn After Hours til the Dawn của anh tại Sân vận động SoFi.[242] Sau đó, anh biểu diễn bốn bài hát - "Artificial Intelligence", "Defame Moi", "More Coke!!," và "Emotionless" - từ album 4:23 của Mike Dean, phát hành vào ngày 29 tháng 4 năm 2023. Vào tháng 5 năm 2023, Tesfaye tuyên bố rằng anh đang có ý định từ bỏ nghệ danh "the Weeknd" để biểu diễn dưới tên khai sinh của mình hoặc sử dụng hoàn toàn một nghệ danh mới. Anh giải thích rằng album sắp tới của anh rất có thể sẽ được coi là "lời réo gọi cuối cùng" của anh dưới cái tên này.[243]

The Weeknd đồng biên kịch loạt phim truyền hình dài tập Thần tượng của HBO với Sam Levinson và đóng vai chính trong chương trình cùng với Lily-Rose Depp. Bộ phim được công chiếu lần đầu tại Liên hoan phim Cannes 2023 mà không có sự cạnh tranh, và nhận được vô số chỉ trích vì chứa nhiều nội dung khỏa thân và tình dục trên màn ảnh. Bộ phim ra mắt đã vấp phải nhiều đánh giá tiêu cực từ các nhà phê bình. The Hollywood Reporter tuyên bố rằng loạt phim này "thay vì bóp méo một cách tinh vi bản chất kỳ thị phụ nữ và săn mồi của công việc kinh doanh, Thần tượng đã trở thành một câu chuyện tình yêu bị cấm đoán - thứ tưởng tượng của một người đàn ông độc hại", và gọi nó là "bước lùi hơn là vượt quá giới hạn".[244] Đến cả Tesfaye cũng đã nhận được những đánh giá tiêu cực về khả năng diễn xuất của mình, theo như nhà phê bình Robert Daniels của The Playlist viết, "Tesfaye cũng là một diễn viên tệ hại. Anh ta thiếu sự thoải mái, sức hấp dẫn, sự lôi cuốn và sự quyến rũ để tăng khả năng Jocelyn bị thu hút bởi anh ta. Nhiều cảnh phim, Tesfaye hay che lấp khiếm khuyết của mình dưới ánh sáng trường quay mờ ảo, vật che đậy quá mức khó chịu hoặc đoạn hội thoại được ghi đi ghi lại và lồng trong một số khúc."[245] Vào ngày 28 tháng 8 năm 2023, HBO thông báo đã huỷ bỏ dự án Thần tượng chỉ sau một mùa.[246]

Vào ngày 8 tháng 6 năm 2023, Tesfaye công bố một loạt EP sắp ra mắt có nhạc của Thần tượng, vốn ban đầu dự định là một album nhạc phim, mỗi EP sẽ được phát hành sau buổi ra mắt mỗi tập của chương trình. Trong đó có sự hợp tác với Future, Playboi Carti, MadonnaJennie từ nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Blackpink.[247] Cuối tháng 6, anh nhận được lời mời từ Học viện hàn lâm để trở thành thành viên.[248] Vào ngày 21 tháng 7, Tesfaye xuất hiện trong đĩa đơn chủ đạo "K-pop" nằm trong album thứ tư Utopia của Travis Scott,[249] và sau đó xuất hiện trong một ca khúc khác trong album của Scott, "Circus Maximus". Tesfaye góp mặt trong đĩa đơn "Another One of Me" của Diddy vào ngày 15 tháng 9, mà anh gọi là "lần hợp tác cuối cùng của anh" khi đi lưu diễn.[250][251]

Nghệ thuật

[sửa | sửa mã nguồn]

Abel nói rằng Michael Jackson, Prince và R. Kelly là nguồn cảm hứng cho âm nhạc của mình. Anh cũng xem Michael Jackson là cảm hứng chính trong sự nghiệp âm nhạc của mình theo ca khúc "Dirty Diana" là một ví dụ. Anh cũng nói rằng giọng hát cao thé cũng mình là bị ảnh hưởng từ ca sĩ Aster Aweke. Anh nghe rất nhiều thể loại âm nhạc khác nhau bao gồm nhạc soul, quiet storm, hip-hop, funk, indie rock và post-punk.

Hầu hết các bài hát của Abel được sản xuất với phong cách nhạc tempo chậm rãi, bass nặng và nhiều âm hưởng vang. Abel nói rằng phong cách của mình bị ảnh hưởng từ Michael Jackson rất nhiều. Cũng như khơi gợi rất nhiều trí tò mò từ các nhà phê bình âm nhạc, anh chủ yếu hợp tác với nhà sản xuất nhạc Illangelo và Doc McKinney.

Lời ca khúc đơn giản nhưng sâu lắng của anh thường có chủ đề về việc tổn thương cũng như đương đầu với những vấn đề như tình dục, thuốc phiên và tiệc tùng. Paul MacInnes của tờ The Guardian cũng cho rằng bộ ba EP của anh là "về lúc tiệc tùng, tới sau buổi tiệc và buổi sáng hôm sau".

Abel cũng quảng bá rộng rãi các phong cách nhạc khác nhau và xem đó là nguồn cảm hứng cho âm nhạc của mình. Trong lúc làm album Starboy, Abel nói rằng David Bowie, Prince, The Smiths, Bad Brains, Talking Heads, DeBarge, 50 Cent, The Wu-Tang Clan và Eminem là nguồn cảm hứng cho album Starboy.

Những dự án khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong suốt tour lưu diễn vòng quanh nước Mỹ của mình quảng bá cho Kiss Land, Abel hợp tác với hãng sản xuất bao cao su ONE phát tặng miễn phí phiên bản đặc biệt giới hạn ở những buổi biểu diễn của mình. Vỏ bao cao su in hình album cùng với hình đại diện Oxcy được in mặt còn lại.

Tháng 11/2015, để quảng bá tích cực cho Beauty Behind the Madness, anh hợp tác với PAX Labs cho ra đời thuốc lá điện tử PAX 2 được phép sử dụng ở các buổi biểu diễn của mình. Nhãn hiệu "XO" được in trên thân cũng như phát bài "The Hills" mỗi khi mở để sử dụng. Với giá 279 đô Mỹ cho bản bình thường thì bản giới hạn có giá 324 đô Mỹ. PAX cũng là nhà tài trợ cho tour lưu diễn và logo được đặt ở vị trí VIP. CMO của PAX là Richard Murphy cho biết "Âm nhạc và thời trang luôn đi song song với nhau ở PAX. Đây là cơ hội tuyệt vời để đưa phong cách của The Weeknd hợp nhất với công nghệ của chúng tôi".

Năm 2016, Abel thông báo về việc hợp tác với Puma với tư cách là đại sứ thương hiệu cho chiến dịch "Run the Streets" được ra mắt vào đầu tháng 11 với bộ sưu tập đặc biệt được ra mắt cùng thời điểm với album Starboy. Anh cũng dẫn chương trình khai trương một số cửa hàng pop-up cho bộ sưu tập "Starboy: Limited Capsule" được bày bán ở thị trường Bắc Mỹ bao gồm New York, Los Angeles, và Toronto. Với sự hợp tác này, Abel cũng cho ra mắt 3 bộ sưu tập tên PUMA X XO bao gồm áo thun, nón, quần nỉ, áo bomber và giày tên the Parallels.

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Marsh, Calum (ngày 16 tháng 2 năm 2021). “Everything We Know About The Weeknd Before He Blew Up”. Complex. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2021. He apparently also recorded music under the names The Noise and Kin Kane.
  2. ^ Eells, Josh (ngày 21 tháng 10 năm 2015). “Sex, Drugs and R&B: Inside The Weeknd's Dark Twisted Fantasy”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2018.
  3. ^ Donnelly, Matt; Sharf, Zack (ngày 22 tháng 5 năm 2023). 'The Idol' Scandalizes Cannes With Five-Minute Standing Ovation for Lily-Rose Depp's Masturbating Pop Star, Explicit Nudity and the Weeknd's TV Acting Debut”. Variety (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2023.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  4. ^ Wimmer, Micah (ngày 21 tháng 3 năm 2018). “On the Weeknd, House of Balloons, and Its Massive Influence”. Medium. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021. Listening to House of Balloons now, years after its initial release, its influence stands out as much as its quality. It might not be fully accurate to name it as the first so-called alternative R&B album, the one that set the stage for Frank Ocean, FKA Twigs, Rhye, Tinashe, and Miguel's more experimental work, but regardless, it still seems like a dividing line in the progression of R&B in the 2010s.
  5. ^ Kennedy, Gerrick D. (ngày 12 tháng 2 năm 2016). “How the Weeknd got his revenge and became one of the biggest pop stars”. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2023.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  6. ^ “House of Balloons – The Weeknd”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  7. ^ Cox, Jamieson (ngày 28 tháng 2 năm 2016). “Watch The Weeknd reenact the "Earned It" video on the Oscar stage”. The Verge (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  8. ^ “59th Annual GRAMMY Awards”. Giải Grammy lần thứ 59. ngày 28 tháng 11 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 1 năm 2018.
  9. ^ Aswad, Jem (ngày 30 tháng 3 năm 2018). “Music Review: The Weeknd's EP 'My Dear Melancholy,'. Variety (bằng tiếng Anh Mỹ). Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2024.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  10. ^ a b McIntyre, Hugh. “The Weeknd Scores The Largest Streaming Week Ever For An R&B Album”. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  11. ^ Tyska, Jane (ngày 7 tháng 2 năm 2021). “Photos: The Weeknd plays Super Bowl LV halftime show”. The Mercury News. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  12. ^ Lavin, Will (ngày 1 tháng 12 năm 2020). “Billie Eilish, The Weeknd and Bad Bunny among Spotify's most-streamed artists of 2020”. NME. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2021.
  13. ^ Aswad, Jem (ngày 30 tháng 11 năm 2020). “Bad Bunny, The Weeknd Top Spotify's Year-End 'Wrapped' Lists”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2021.
  14. ^ Sadler, Armon (ngày 6 tháng 12 năm 2022). “The Weeknd Becomes First Canadian Artist To Earn 4 Diamond Singles”. VIBE (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2023.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  15. ^ Alston, Trey (ngày 19 tháng 11 năm 2020). “Soul Train Awards '20: Here's Why Each R&B/Soul Male Nominee Deserves The Top Spot – The Weeknd”. BET. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2020.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  16. ^ Trust, Gary (ngày 8 tháng 3 năm 2021). “Olivia Rodrigo's 'Drivers License' Leads Hot 100 for 8th Week, The Weeknd's 'Blinding Lights' Marks a Year in Top 10”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2021.
  17. ^ “The Weeknd's "Blinding Lights" Is Now the Longest-Charting Billboard Hot 100 Song of All Time”. Complex (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  18. ^ John, Elton (ngày 22 tháng 9 năm 2020). “THE 100 MOST INFLUENTIAL PEOPLE OF 2020 – The Weeknd”. Time. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  19. ^ “The Weeknd is officially the world's most popular artist”. ngày 20 tháng 3 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2023.
  20. ^ “U.N. World Food Programme Announces The Weeknd as Global Goodwill Ambassador”. www.wfp.org (bằng tiếng Anh). ngày 7 tháng 10 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2022.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  21. ^ “WFP Goodwill Ambassador The Weeknd Raises $5 Million to Fight Global Hunger”. Web3Wire. ngày 1 tháng 12 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2022.
  22. ^ a b c d Eells, Josh (ngày 21 tháng 10 năm 2015). “Sex, Drugs and R&B: Inside The Weeknd's Dark Twisted Fantasy”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2018.
  23. ^ a b c Caramanica, Jon (ngày 27 tháng 7 năm 2015). “Can The Weeknd Turn Himself into the Biggest Pop Star in the World?”. The New York Times Magazine. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2015.
  24. ^ Mistry, Anupa (ngày 23 tháng 12 năm 2011). “Daily Disc: The Weeknd's 'Echoes Of Silence'. Toronto Standard. MeshSquared Ventures. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2019.
  25. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên allmusicbio
  26. ^ Rivera, Joe (ngày 7 tháng 2 năm 2021). “Who is The Weeknd? Super Bowl 55 halftime show performer's songs, lyrics & more to know”. Sporting News. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2021.
  27. ^ “Is The Weeknd Ethiopian?”. Capital Xtra.
  28. ^ Ledbetter, Carly (ngày 11 tháng 2 năm 2016). “9 things You Need To Know About The Weeknd”. HuffPost. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  29. ^ Lamb, Karas (ngày 16 tháng 9 năm 2013). “The Weeknd Reveals The Origin Of His Name + More”. Okayplayer. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  30. ^ Ehrlich, Brenna (ngày 13 tháng 9 năm 2013). “The Weeknd Reveals How He Got His Name... And Where The 'E' Went”. MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  31. ^ Wagstaff, Keith; Swanson, David (ngày 26 tháng 10 năm 2015). “10 Things You Should Know About the Weeknd”. GQ. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2018.
  32. ^ HATHERLY, TARA (ngày 7 tháng 12 năm 2015). “Scarborough native The Weeknd scores seven Grammy nominations”. Metroland Media Group. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  33. ^ Mistry, Anupa (ngày 30 tháng 10 năm 2015). “Why The Weeknd is truly Toronto's very own”. The Globe and Mail. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  34. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Abel - Do It
  35. ^ a b c Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Screwed
  36. ^ Caramanica, Jon (ngày 31 tháng 12 năm 2010). “Screams That Charmed, and Other Overlooked Highlights”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2015.
  37. ^ Fitzmaurice, Larry (ngày 4 tháng 3 năm 2011). “The Weeknd – What You Need. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2011.
  38. ^ Stewart, Allison (ngày 14 tháng 3 năm 2011). “Singles File: Da Phuture, The Weeknd, Fever Ray”. The Washington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2013.
  39. ^ Shepherd, Julianne Escobedo (ngày 23 tháng 3 năm 2011). “Love and Other Drugs: The Weeknd's Altered-State R&B”. WNET. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2020.
  40. ^ Leight, Elias (ngày 27 tháng 7 năm 2015). “9 Things We Learned From The New York Time Story On The Weeknd”. The Fader.
  41. ^ COX, CAILYN (ngày 5 tháng 12 năm 2016). “The Weeknd is hugely successful now but that wasn't always the case”. SHE Media.
  42. ^ a b MARSH, CALUM (ngày 16 tháng 2 năm 2021). “Everything We Know About The Weeknd Before He Blew Up”. Complex Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2021.
  43. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên :0
  44. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên house
  45. ^ Ramirez, Erika (ngày 21 tháng 3 năm 2011). “Say Hello to The Weeknd, Drake Co-Signs”. MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2015.
  46. ^ “25 best Canadian debut albums ever”. CBC Music. ngày 16 tháng 6 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2017.
  47. ^ “House of Balloons Reviews”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  48. ^ “Polaris Music Prize”. Polaris Music Prize. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2014.
  49. ^ GlowRadio.ca presents: The Weeknd - what you need @ black student Association, University of Toronto. GlowRadio. ngày 7 tháng 4 năm 2011 – qua YouTube.
  50. ^ Ritchie, Kevin (ngày 25 tháng 7 năm 2011). “The Weeknd's perfect premiere”. NOW Toronto. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2011.
  51. ^ Fitzmaurice, Larry (ngày 3 tháng 7 năm 2011). “The Weeknd to Play Drake's OVO Festival”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  52. ^ Berry, Peter A. (ngày 16 tháng 11 năm 2017). “Drake Sets The Record Straight On How Much The Weeknd Wroteon Take Care Album”. XXL. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  53. ^ Lau, Melody (ngày 25 tháng 7 năm 2011). “Mysterious R&B singer sells out first show”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  54. ^ Cooper, Leonie (ngày 15 tháng 7 năm 2013). “The Weeknd says he's 'boring' in first ever interview”. NME.
  55. ^ Dunlevy, T'Cha (ngày 23 tháng 3 năm 2012). “365 days of Weeknd: We chart Abel Tesfaye's rise to fame a year after House of Balloons”. National Post. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 3 năm 2012.
  56. ^ “The Weeknd - The Noise”. Last.fm.
  57. ^ @theweeknd. “noise ep was bunch of songs leaked by salty producers and found AFTER HOB dropped. demo's written as a teen to get recognition. xo” (Tweet) – qua Twitter.
  58. ^ a b Snapes, Laura (ngày 16 tháng 4, 2012). “Abel Tesfaye makes his U.S. debut”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1, 2021.
  59. ^ Krishnamurthy, Sowmya (ngày 29 tháng 4, 2012). “The Weeknd Mesmerizes at Bowery Ballroom”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5, 2012.
  60. ^ Battan, Carrie (ngày 1 tháng 3, 2012). “The Weeknd to Headline Pitchfork Stage at Primavera”. Pitchfork.
  61. ^ Lough, Kate (ngày 31 tháng 5, 2012). “Wireless Festival 2012”. London Evening Standard.
  62. ^ “THE WEEKND, CHIDDY BANG & MORE FOR WIRELESS 2012”. DIY. ngày 27 tháng 3, 2012.
  63. ^ Goodwyn, Tom (ngày 8 tháng 6 năm 2012). “The Weeknd covers Michael Jackson as he plays his debut UK show”. NME. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  64. ^ Hampp, Andrew (ngày 12 tháng 11, 2012). “The Weeknd & Reps Talk Clearing Samples, Touring For 'Trilogy' Release”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1, 2021.
  65. ^ “Echoes Of Silence The Weeknd reveals final part of the Balloons Trilogy The Line Of Best Fit”. The Line of Best Fit. ngày 22 tháng 12, 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9, 2020.
  66. ^ Battan, Carrie (ngày 2 tháng 10, 2012). “The Weeknd Shares 'Rolling Stone' Video, Trilogy Artwork”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1, 2021.
  67. ^ Trilogy - Booklet. The Weeknd. 2012 – qua Genius.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  68. ^ “Trilogy – The Weeknd”. Billboard.
  69. ^ Caulfield, Keith (ngày 10 tháng 10, 2012). “One Direction Tops Billboard 200 Chart, 'Twilight' Debuts at No. 3”. Billboard. Los Angeles. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2, 2017.
  70. ^ “Gold & Platinum Searchable Database”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ.
  71. ^ “Gold and Platinum Search”. Music Canada. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9, 2013.
  72. ^ “Sound of 2013 Profiles: The Weeknd”. BBC. ngày 9 tháng 12, 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12, 2012.
  73. ^ Nostro, Lauren (ngày 16 tháng 5, 2013). “Listen: The Weeknd "Kiss Land". Complex Networks. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11, 2020.
  74. ^ Williott, Carl (ngày 22 tháng 7, 2013). “The Weeknd Unveils 'Kiss Land' Release Date & Cover Artwork”. Idolator. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  75. ^ Caulfield, Keith (ngày 1 tháng 12, 2012). “Keith Urban Edges The Weeknd for No. 1 Debut on Billboard 200”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9, 2013.
  76. ^ “Kiss Land Reviews”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1, 2021.
  77. ^ Battan, Carrie (ngày 8 tháng 7, 2013). “The Weeknd Announces Big Fall Tour, Kiss Land Out Late Summer”. Pitchfork.
  78. ^ “The Weeknd on Beauty Behind the Madness Album, Taylor Swift and Michael Jackson | Billboard | Billboard”. Billboard. ngày 31 tháng 1, 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 1, 2021. Truy cập ngày 28 tháng 9, 2021.
  79. ^ “Complex Music on Twitter: "In 2013, @theweeknd dropped #KissLand. Today, it's #1 on the iTunes R&B chart. Timeless 💚... ". ngày 10 tháng 8, 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 8, 2020. Truy cập ngày 28 tháng 9, 2021.
  80. ^ Payne, Chris (ngày 4 tháng 11, 2013). “The Weeknd To Open For Justin Timberlake On '20/20 Experience' Tour”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1, 2021.
  81. ^ Hakimian, Rob (ngày 19 tháng 11, 2013). “Album Review: Various Artists – The Hunger Games: Catching Fire Soundtrack”. Consequence. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12, 2018.
  82. ^ Lee, Ashley (ngày 18 tháng 2, 2014). “[Audio] Beyonce's 'Drunk in Love': Kanye West, The Weeknd Release Remixes”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1, 2021.
  83. ^ “Ariana Grande and The Weeknd Team Up In 'Love Me Harder' Video”. Rap-Up. ngày 3 tháng 10, 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 10, 2014.
  84. ^ “The Weeknd touring w/ Schoolboy Q & Jhene Aiko, playing Barclays Center (dates); SBQ played Central Park”. BrooklynVegan. ngày 26 tháng 6, 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9, 2014.
  85. ^ “Ida Maria Gets Exclamatory”. Idolator. ngày 19 tháng 3, 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12, 2015.
  86. ^ Cox, Jamieson (ngày 28 tháng 2, 2016). “Oscars 2016: Watch The Weeknd reenact his sultry video for Earned It”. The Verge.
  87. ^ “Grammys 2016: The Weeknd Wins Two Awards”. PEOPLE.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 9, 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  88. ^ Lockett, Dee (ngày 27 tháng 5 năm 2015). “The Weeknd Returns With 'The Hills,' Which Probably Isn't About Lauren Conrad”. Vulture.com. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  89. ^ McIntyre, Hugh (ngày 28 tháng 6 năm 2019). “The Weeknd's No. 1 Hit 'The Hills' Becomes His First Diamond-Certified Single”. Forbes.
  90. ^ Lamare, Carl (ngày 28 tháng 6 năm 2019). “The Weeknd's 'The Hills' Certified Diamond: Exclusive”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  91. ^ Beauchemin, Molly (ngày 28 tháng 6 năm 2015). “Janelle Monáe Performs "Yoga", The Weeknd Performs "Earned It" with Alicia Keys at the BET Awards”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  92. ^ Kreps, Daniel (ngày 8 tháng 6 năm 2015). “Hear The Weeknd's Funky New Song 'Can't Feel My Face'. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 6 năm 2015.
  93. ^ Trust, Gary (ngày 1 tháng 7 năm 2015). “Wiz Khalifa No. 1 on Hot 100 'Again,' Selena Gomez Debuts at No. 9”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  94. ^ Trust, Gary (ngày 10 tháng 8 năm 2015). “The Weeknd Tops Hot 100 With 'Can't Feel My Face,' One Direction Debuts at No. 3”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  95. ^ “Grammy Nominations 2016: See the Full List of Nominees”. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 7 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  96. ^ Mendizabal, Amaya (ngày 15 tháng 7 năm 2015). “The Weeknd Is First Artist to Own Entire Top Three on Hot R&B Songs Chart”. Billboard.
  97. ^ “Apple's new musical faces – Drake and The Weeknd”. Business Insider. Agence France-Presse. ngày 8 tháng 6 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2021.
  98. ^ “Latest Apple Music ads debut during MTV VMAs, feature The Weeknd & playlists”. ngày 31 tháng 8 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  99. ^ “Deadmau5 & The Weeknd headline FVDED IN THE PARK 2015”. Daily Hive. ngày 19 tháng 12 năm 2017.
  100. ^ Harling, Danielle (ngày 22 tháng 6 năm 2015). “Meek Mill Reveals 'Dreams Worth More Than Money' Features”. HipHopDX. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2019.
  101. ^ Caulfield, Keith (ngày 6 tháng 9 năm 2015). “The Weeknd's 'Beauty Behind the Madness' Debuts at No. 1 on Billboard 200 Chart”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2018.
  102. ^ Caulfield, Keith (ngày 20 tháng 9 năm 2015). “The Weeknd spends third week at No. 1 on Billboard 200”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  103. ^ Ryan, Gavin (ngày 5 tháng 9 năm 2015). “ARIA Albums : The Weeknd Takes Top Spot On Australian Chart”. Noise11. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2020.
  104. ^ “Top 20 Albums”. Music Canada. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2015.
  105. ^ Mansfield, Brian (ngày 10 tháng 7 năm 2015). “The Weeknd's new album is coming Aug. 28”. USA Today. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2015.
  106. ^ Gordon, Jeremy (ngày 20 tháng 8 năm 2015). “The Weeknd announces The Madness Fall Tour”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  107. ^ Martin, Paley (ngày 21 tháng 8 năm 2015). “The Weeknd Announces The Madness Fall Tour With Travi$ Scott, Halsey & Banks”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2015.
  108. ^ MORRIS, JESSIE (ngày 30 tháng 8 năm 2016). “The Weeknd Now Holds Two Guinness World Records”. Complex Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2022.
  109. ^ Schneider, Marc (ngày 1 tháng 12 năm 2015). “Spotify's Year in Music: Drake Most Streamed Artist, Major Lazer & DJ Snake Had Top Song”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2015.
  110. ^ “The Weeknd, 'Beauty Behind the Madness'. Rolling Stone. ngày 1 tháng 12 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2016.
  111. ^ Trust, Gary (ngày 8 tháng 9 năm 2015). “The Weeknd Doubles Up in Hot 100's Top Three”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  112. ^ “See All the Winners of the 2016 Grammys”. Time (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  113. ^ “Justin Bieber, Kanye West, The Weeknd, & more featuring on Travi$ Scott's 'Rodeo" album”. Inquisitr. ngày 29 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2021.
  114. ^ Strecker, Erin (ngày 1 tháng 9 năm 2015). “The Weeknd & Demi Lovato Announced as 'SNL' Musical Guests”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  115. ^ a b Gracie, Bianca (ngày 1 tháng 9 năm 2015). “Demi Lovato & The Weeknd To Perform On 'Saturday Night Live' This Season”. Idolator. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2022.
  116. ^ Hudson, Alex (ngày 8 tháng 5 năm 2015). “Belly 'Might Not' (ft. The Weeknd)”. Exclaim!. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2020.
  117. ^ Guiducci, Mark (ngày 3 tháng 5 năm 2016). “The Weeknd on Going From Indie R&B Enigma to the Pacesetting Prince of Pop”. Vogue.
  118. ^ Hooton, Christopher (ngày 12 tháng 2 năm 2016). “The Life of Pablo tracklist: Kanye West's new album features Frank Ocean, The Weeknd and Young Thug”. The Independent.
  119. ^ “Listen: The Weeknd Surprises Fans By Dropping Two New Songs!”. CKIS-FM. ngày 27 tháng 12 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2020.
  120. ^ 6 Inch. Beyonce – qua YouTube.
  121. ^ Morris, Jesse (ngày 24 tháng 8 năm 2016). “It Sounds Like a Weeknd and Cashmere Cat Collab Is on the Way”. Complex Networks. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  122. ^ MENCH, CHRIS (ngày 23 tháng 8 năm 2016). “The Weeknd Is Reportedly Working with Daft Punk”. Complex Networks. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2016.
  123. ^ Pearce, Sheldon (ngày 21 tháng 9 năm 2016). “The Weeknd Announces New Album Starboy”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  124. ^ “Hear the Weeknd's new track with Daft Punk, Starboy”. The Guardian. ngày 22 tháng 9 năm 2016. ISSN 0261-3077. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2021.
  125. ^ “The Weeknd's 'Starboy,' Featuring Daft Punk, Hits No. 1 on Hot 100 | Billboard | Billboard”. Billboard. ngày 20 tháng 1 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2021.
  126. ^ “Gold & Platinum - RIAA”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. ngày 1 tháng 2 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2021.
  127. ^ Zwilling, Eric (ngày 21 tháng 9 năm 2016). “Listen to Daft Punk's new collaboration with The Weeknd, 'Starboy'. Dancing Astronaut. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2020.
  128. ^ Peters, Mitchell (ngày 2 tháng 10 năm 2016). “Watch The Weeknd Perform 'Starboy' and 'False Alarm' on 'SNL' Season Premiere”. Billboard.
  129. ^ “Watch The Weeknd's New Short Film Mania”. Pitchfork. ngày 23 tháng 11 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2016.
  130. ^ Watch The Weeknd – Mania on YouTube. The Weeknd. ngày 23 tháng 11 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2016 – qua YouTube.
  131. ^ “The Weeknd’s ‘Starboy’ Bows at No. 1 on Billboard 200 With Third-Biggest Debut of 2016 | Billboard | Billboard”. Billboard. ngày 30 tháng 1 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2021.
  132. ^ “Gold & Platinum - RIAA”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. ngày 1 tháng 2 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2021.
  133. ^ “NewsAlert: Starboy Wins Best Urban Contemporary Album for the Weeknd”. National Post. The Canadian Press. ngày 28 tháng 1 năm 2018.
  134. ^ Blistein, John (ngày 16 tháng 2 năm 2017). “Hear the Weeknd's Sultry 'Some Way' Collaboration With Nav”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  135. ^ Brandle, Lars (ngày 24 tháng 2 năm 2017). “Future Releases New Album 'HNDRXX' Featuring The Weeknd and Rihanna: Listen”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  136. ^ Gaca, Anna (ngày 19 tháng 4 năm 2017). “For Better or Worse, Lana Del Rey and the Weeknd's "Lust for Life" Is a Lana Del Rey Song”. Spin.
  137. ^ Pearce, Sheldon (ngày 20 tháng 4 năm 2017). “Lana Del Rey "Lust for Life" ft. The Weeknd”. Pitchfork.
  138. ^ Boykins, Austin (ngày 31 tháng 1 năm 2018). “TDE Reveals Loaded Tracklist for 'Black Panther' Soundtrack”. Hypebeast. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  139. ^ Madden, Sidney (ngày 2 tháng 2 năm 2018). “Kendrick Lamar And The Weeknd Team Up For 'Pray For Me'. NPR.org (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  140. ^ Sargent, Jordan (ngày 29 tháng 3 năm 2018). “The Weekend Announces New Album 'My Dear Melancholy,'. Spin. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  141. ^ “Is The Weeknd Dropping A New Album This Week?”. Vibe. ngày 27 tháng 3 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  142. ^ Murray, Robin (ngày 29 tháng 3 năm 2018). “Has Someone Accidentally Leaked News of the Weeknd's New Album?”. Clash. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  143. ^ Lamarre, Carl (ngày 27 tháng 3 năm 2018). “Is The Weeknd Dropping a New Album on Friday?”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  144. ^ “The Weeknd Scores Third Consecutive No. 1 Album on Billboard 200 Chart With 'My Dear Melancholy'. Billboard. ngày 9 tháng 11 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2021.
  145. ^ “The Weeknd teases new song release”. Independent Online. ngày 28 tháng 3 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  146. ^ Goddard, Kevin (ngày 29 tháng 3 năm 2018). “Stream The Weeknd's "My Dear Melancholy" EP”. HotNewHipHop. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  147. ^ Unterberger, Andrew (ngày 14 tháng 4 năm 2018). “The Weeknd Fulfills His Coachella Destiny With Triumphant Headlining Set”. Billboard (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2022.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  148. ^ Blistein, Jon (ngày 3 tháng 1 năm 2018). “Beyonce, Eminem, the Weeknd to Headline Coachella 2018”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2022.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  149. ^ Penrose, Nerisha (ngày 6 tháng 6 năm 2018). “The Weeknd Announces New Beats 1 Radio Show Memento Mori”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  150. ^ “Here are the full album credits for Travis Scott's ASTROWORLD”. The FADER (bằng tiếng Anh). ngày 31 tháng 7 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2024.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  151. ^ “ザ・ウィークエンド・イン・ジャパン(シングルス・コレクション” [The Weeknd in Japan (Bộ sưu tập đĩa đơn)] (bằng tiếng Nhật). Universal Music Group. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2019.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  152. ^ Blais-Billie, Braudie (ngày 11 tháng 1 năm 2019). “Listen to Gesaffelstein and the Weeknd's New Song "Lost in the Fire". Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  153. ^ Pearce, Sheldon (ngày 18 tháng 4 năm 2019). “SZA / The Weeknd / Travis Scott 'Power Is Power'. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2019.
  154. ^ SZA, The Weeknd and Travis Scott Share Video For 'Game of Thrones' Inspired Track. Billboard. ngày 5 tháng 5 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  155. ^ “The Weeknd to Release New Single 'Blinding Lights' on Black Friday”. Rap-Up. ngày 24 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2019.
  156. ^ “Five Burning Questions: Billboard Staffers Discuss The Weeknd's Top 40 Debut For 'Heartless'. Billboard. ngày 3 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2020.
  157. ^ Trust, Gary (ngày 9 tháng 12 năm 2019). “The Weeknd's 'Heartless' Hits No. 1 on Hot 100, Mariah Carey's 'All I Want for Christmas Is You' Returns to No. 3 High”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2020.
  158. ^ Trust, Gary (ngày 30 tháng 3 năm 2020). “The Weeknd's 'Blinding Lights' Hits No. 1 on Billboard Hot 100, Doja Cat's 'Say So' Enters Top 10”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2020.
  159. ^ Trust, Gary (ngày 9 tháng 3 năm 2021). “The Weeknd Talks Unprecedented Year in Hot 100's Top 10 With 'Blinding Lights': 'This Is Truly a Result of the Fans'. Billboard (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  160. ^ Trust, Gary (ngày 16 tháng 8 năm 2021). “The Weeknd's 'Blinding Lights' Spends Record-Breaking 88th Week on Billboard Hot 100”. Billboard (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  161. ^ “The Weeknd's "Blinding Lights" Is Now the Longest-Charting Billboard Hot 100 Song of All Time”. Complex (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  162. ^ Mamo, Heran (ngày 23 tháng 11 năm 2021). “The Greatest Hit: The New No. 1 Song of All Time”. Billboard (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  163. ^ The Weeknd's 'Blinding Lights' becomes the most-streamed song on Spotify (bằng tiếng Anh), ngày 4 tháng 1 năm 2023, lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 1 năm 2023, truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2023Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  164. ^ Brandle, Lars (ngày 19 tháng 2 năm 2020). “The Weeknd Sets 'After Hours' Release Date, Shares Dark Title Track: Listen”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 3 năm 2020.
  165. ^ Young, Alex (ngày 8 tháng 3 năm 2020). “The Weeknd Debuts New Song, Appears in Sketch on SNL”. Consequence. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2020.
  166. ^ “The Weeknd Loses His Head in Gory New "In Your Eyes" Video”. Pitchfork. ngày 27 tháng 11 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2021.
  167. ^ Strauss, Matthew (ngày 20 tháng 3 năm 2020). “Listen to the Weeknd's New Album After Hours”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2020.
  168. ^ Caulfield, Keith (ngày 29 tháng 3 năm 2020). “The Weeknd's 'After Hours' Debuts at No. 1 on Billboard 200 Chart With Biggest Week of 2020”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2020.
  169. ^ “THE WEEKND CAPTURES #1 ALBUM AND #1 ON BILLBOARD HOT 100 WITH AFTER HOURS AND BLINDING LIGHTS”. Umusic (bằng tiếng Anh Mỹ). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  170. ^ Trust, Gary (ngày 1 tháng 4 năm 2020). “The Weeknd on Being the First Artist to Top These 5 Charts at Once: 'It Feels Like a Huge Blessing' (Exclusive)”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  171. ^ Zellner, Xander (ngày 8 tháng 4 năm 2020). “The Weeknd also repeats at No. 1 on the Billboard 200, Hot 100 & Artist 100”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  172. ^ “The Weeknd Adds Three New Songs to 'After Hours' Deluxe Edition”. Rolling Stone. ngày 30 tháng 3 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2023.
  173. ^ BAILEY, ALYSSA (ngày 30 tháng 10 năm 2020). “Ariana Grande And The Weeknd's 'Off The Table' Lyrics Are About Her Finding Love After Losing Mac Miller”. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  174. ^ Iasimone, Ashley (ngày 24 tháng 10 năm 2020). “Ariana Grande Unveils 'Positions' Track List”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2020.
  175. ^ “The Weeknd Joins Oneohtrix Point Never on New Song 'No Nightmares'. Rolling Stone. ngày 26 tháng 10 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  176. ^ Roiz, Jessica (ngày 5 tháng 11 năm 2020). “The Weeknd Sings in Spanglish on Fiery 'Hawái' Remix With Maluma: Watch the Video”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  177. ^ “2021 Latin Grammy nominations: Bad Bunny, Maluma, and more”. www.yahoo.com (bằng tiếng Anh Mỹ). ngày 28 tháng 9 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  178. ^ Slater, Georgia (ngày 30 tháng 10 năm 2020). “Harry Styles, Billie Eilish, Shawn Mendes to Perform at Virtual iHeartRadio Jingle Ball”. People. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  179. ^ “Morgan Wallen's 'Dangerous' No. 1 for Fifth Week on Billboard 200 While 'If I Know Me' Hits Top 10 for First Time”. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 14 tháng 2 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  180. ^ McCarriston, Shanna (ngày 12 tháng 11 năm 2020). “Super Bowl LV: The Weeknd announced as Pepsi Halftime Show performer”. CBSSports.com. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  181. ^ O'Connor, Roisin; Michallon, Clémence (ngày 8 tháng 2 năm 2021). “Super Bowl halftime show live: The Weeknd performs with dancers in face bandages at 2021 game”. The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2021.
  182. ^ Steussy, Lauren; DeNinno, Nadine (ngày 8 tháng 2 năm 2021). “What happened to The Weeknd's face at Super Bowl 2021 halftime show?”. New York Post. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2021.
  183. ^ “Best of The Weeknd and the Super Bowl 55 halftime show”. USA Today. ngày 7 tháng 2 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2021.
  184. ^ Bain, Katie (ngày 28 tháng 1 năm 2021). “The Weeknd on the Crew That Boosted Him From 'Basically Homeless' to the Super Bowl”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2021.
  185. ^ Caramanica, Jon (ngày 8 tháng 2 năm 2021). “The Weeknd Emerges From the Shadows at the Super Bowl Halftime Show”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2021.
  186. ^ “Super Bowl halftime show review: The Weeknd wasn't great (but it's not all his fault)”. USA Today. ngày 8 tháng 2 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2021.
  187. ^ Kornhaber, Spencer (ngày 8 tháng 2 năm 2021). “The First Super Bowl Halftime Show About the Depravity of Halftime Shows”. The Atlantic. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  188. ^ Patten, Dominic (ngày 8 tháng 2 năm 2021). “The Weeknd's Super Bowl Halftime Show Scores A Touchdown With A Technical Spectacle & Mixtape Of Hits – Review”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2021.
  189. ^ Julious, Britt (ngày 7 tháng 2 năm 2021). “Review: The Weeknd's Super Bowl halftime performance was an expensive nothing”. Chicago Tribune. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2021.
  190. ^ Fekau, Mesfin (ngày 7 tháng 2 năm 2021). “Review: Yawn, is it Monday yet? The Weeknd bores at halftime”. Associated Press. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2021.
  191. ^ Caulfield, Keith (ngày 11 tháng 2 năm 2021). “The Weeknd's Streams Increase 41% After Super Bowl Halftime Show”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2021.
  192. ^ Caulfield, Keith (ngày 9 tháng 2 năm 2021). “The Weeknd's Sales Up 385% After Super Bowl Halftime Show”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2021.
  193. ^ Libbey, Peter (ngày 13 tháng 7 năm 2021). “Emmys 2021: The List of Nominees”. The New York Times (bằng tiếng Anh Mỹ). ISSN 0362-4331. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  194. ^ Kiefer, Halle (ngày 21 tháng 3 năm 2021). “Step Inside the Weeknd's House of Balloons, Reissued for Its 10th Anniversary”. Vulture (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  195. ^ “The Weeknd Shares Original Version of 'Thursday' Mixtape and MR. Capsule Collection for Its Tenth Anniversary”. HYPEBEAST. ngày 18 tháng 8 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2021.
  196. ^ “The Weeknd and MR. Team Up for Capsule Collection to Commemorate 'Thursday (Original)' Streaming Release”. Complex (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  197. ^ “The Weeknd shares new "Echoes of Silence" video”. The FADER (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  198. ^ “The Weeknd Celebrates 10-Year Anniversary of 'Echoes of Silence' by Sharing Title-Track Video”. Complex (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  199. ^ Mamo, Heran (ngày 23 tháng 4 năm 2021). “The Weeknd Drops 'Save Your Tears' Remix With Ariana Grande: Stream It Now”. Billboard (bằng tiếng Anh Mỹ). Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2024.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  200. ^ Blanchet, Brenton. “The Weeknd and Ariana Grande Score No. 1 Hit for "Save Your Tears". Complex (bằng tiếng Anh Mỹ). Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2024.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  201. ^ Aswad, Jem (ngày 4 tháng 5 năm 2021). “The Weeknd Drops Hints About 'Beautiful' New Music: 'The Dawn Is Coming'. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2021.
  202. ^ “The Weeknd Brings Rainy 'Save Your Tears' to 2021 Brit Awards: Watch”. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 11 tháng 5 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  203. ^ Beaumont-Thomas, Ben (ngày 11 tháng 5 năm 2021). “Brit awards 2021: the ceremony as it happened, with Dua Lipa, Taylor Swift and more”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  204. ^ Singh, Ashish (ngày 28 tháng 5 năm 2021). “Is The Weeknd dropping an album? Fans say 'dawn is coming' after cryptic post”. Meaww.com. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2021.
  205. ^ Park, Sabrina (ngày 25 tháng 6 năm 2021). “Doja Cat and The Weeknd Take Us to Another Universe in Their "You Right" Music Video”. Harper's BAZAAR (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  206. ^ “Belly Enlists The Weeknd, Young Thug For 'Better Believe'. 91.5 The Beat (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  207. ^ Lynch, Joe (ngày 2 tháng 8 năm 2021). “The Weeknd Previews New Era With 'The Dawn Is Coming' Teaser: Watch”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  208. ^ “Announcing the Worldwide Era of GQ”. GQ (bằng tiếng Anh Mỹ). ngày 2 tháng 8 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  209. ^ “The Weeknd vs. Abel Tesfaye”. GQ (bằng tiếng Anh Mỹ). ngày 2 tháng 8 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  210. ^ Hussey, Allison (ngày 2 tháng 8 năm 2021). “The Weeknd Releasing New Song "Take My Breath" This Friday: Watch Preview”. Pitchfork (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  211. ^ Sinha, Charu (ngày 3 tháng 8 năm 2021). “The Weeknd Announces New Single, 'Take My Breath'. Vulture (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  212. ^ “Every Song on Kanye West's 'Donda' Album, Ranked: Critic's Pick”. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 29 tháng 8 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  213. ^ Mamo, Heran (ngày 5 tháng 10 năm 2021). “The Weeknd Says His Next Album Is 'Complete'. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  214. ^ Kreps, Daniel (ngày 3 tháng 3 năm 2022). “The Weeknd Sets 'After Hours Til Dawn' North American Stadium Tour”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2022.
  215. ^ Aswad, Jem (ngày 18 tháng 10 năm 2021). “The Weeknd Moves Tour Dates to Mùa hè 2022”. Variety (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  216. ^ “The Weeknd Announces 'After Hours Til Dawn' Stadium Tour”. Rap-Up (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  217. ^ Aswad, Jem (ngày 22 tháng 10 năm 2021). “The Weeknd and Swedish House Mafia Team Up for Smoldering New Single, 'Moth to a Flame'. Variety (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  218. ^ “Listen to a snippet of Post Malone and The Weeknd's new collaboration 'One Right Now'. NME (bằng tiếng Anh). ngày 3 tháng 11 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  219. ^ “The Weeknd & Post Malone Tease First-Ever Collaboration: Listen”. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 3 tháng 11 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  220. ^ “Rosalía and the Weeknd share trailer for new track "La Fama". The FADER (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  221. ^ Sport (ngày 8 tháng 11 năm 2021). “Rosalía - La Fama: Así es la primera canción del nuevo disco de Rosalía junto a 'The Weeknd'. sport (bằng tiếng Tây Ban Nha). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  222. ^ “FKA twigs teases new The Weeknd collaboration 'Tears In The Club'. NME (bằng tiếng Anh). ngày 13 tháng 12 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  223. ^ Sisavat, Monica (ngày 14 tháng 12 năm 2021). “FKA Twigs Teases a Collab With The Weeknd, and It Sounds Like a Total Banger”. POPSUGAR Entertainment (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  224. ^ “The Weeknd Follows Drake & Chris Brown By Landing Posthumous Aaliyah Collaboration”. HipHopDX. ngày 14 tháng 12 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2021.
  225. ^ “Aaliyah's Posthumous Song With The Weeknd "Poison" Coming Soon: Report”. HotNewHipHop (bằng tiếng Anh). ngày 14 tháng 12 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  226. ^ Corcoran, Nina; Monroe, Jazz (ngày 3 tháng 1 năm 2022). “The Weeknd Releasing New Album Dawn FM This Week”. Pitchfork (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2022.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  227. ^ Caulfield, Keith (ngày 18 tháng 1 năm 2022). “Gunna Scores Second No. 1 Album on Billboard 200 Chart With 'DS4Ever'. Billboard (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2022.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  228. ^ “Gunna's 'DS4EVER' Scores the No. 1 Spot on the Billboard 200 as The Weeknd's 'Dawn FM' Debuts at No. 2”. Complex (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2022.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  229. ^ “The Weeknd Breaks Billboard Global 200 Record With 'Dawn FM'. Complex (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2022.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  230. ^ Unterberger, Andrew (ngày 19 tháng 1 năm 2022). “The Weeknd's New 'Dawn FM' Tops Charts Around The World, Showing His 'Undeniable Global Appeal'. Billboard (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2022.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  231. ^ “Watch The Weeknd's New Video for "Sacrifice". Complex (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2022.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  232. ^ Avila, Daniela (ngày 5 tháng 4 năm 2022). “The Weeknd Drops a Creepy, Karaoke-Singing 'Out of Time' Music Video — and It Features Jim Carrey!”. People (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2022.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  233. ^ Kreps, Daniel (ngày 21 tháng 2 năm 2022). “The Weeknd to Premiere 'Dawn FM Experience' Special This Weekend”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2022.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  234. ^ “Watch The Weeknd appear in new episode of 'The Simpsons'. NME. ngày 21 tháng 3 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2023.
  235. ^ Aswad, Jem (ngày 18 tháng 4 năm 2022). “The Weeknd Closes Out Coachella With Hit-Filled, Tag-Team Set With Swedish House Mafia”. Variety (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2022.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  236. ^ “Coachella 2022: The Weeknd covers Kanye, Drake as part of hits-filled headlining set”. Consequence (bằng tiếng Anh Mỹ). ngày 18 tháng 4 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2022.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  237. ^ Mier, Tomás (ngày 26 tháng 7 năm 2022). “The Weeknd Brings 'After Hours' to Universal Studios' Halloween Horror Nights”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2022.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  238. ^ Strauss, Matthew (ngày 24 tháng 2 năm 2023). “The Weeknd Enlists Ariana Grande for New "Die for You (Remix)". Pitchfork (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  239. ^ Trust, Gary (ngày 6 tháng 2 năm 2023). “Miley Cyrus' 'Flowers' Tops Billboard Hot 100 for Third Week, Lil Uzi Vert's 'Just Wanna Rock' Hits Top 10”. Billboard (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  240. ^ Trust, Gary (ngày 6 tháng 3 năm 2023). “The Weeknd & Ariana Grande's 'Die for You' Leaps to No. 1 on Billboard Hot 100”. Billboard (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2023.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  241. ^ Rowley, Glenn (ngày 27 tháng 2 năm 2023). “The Weeknd Becomes First Artist to Hit This Spotify Milestone”. Billboard (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  242. ^ Kaufman, Gil (ngày 3 tháng 3 năm 2023). “The Weeknd Drops First Live Album, 'Live at SoFi Stadium'. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2023.
  243. ^ Holmes, Helen (ngày 8 tháng 5 năm 2023). “The Weeknd Doesn't Want to Be The Weeknd Anymore”. The Daily Beast. The Daily Beast Company LLC. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2023.
  244. ^ 'The Idol' Review: Lily-Rose Depp and The Weeknd in an HBO Series That's More Regressive Than Transgressive”. The Hollywood Reporter. ngày 23 tháng 5 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2023.
  245. ^ 'The Idol' Review: Sam Levinson's Crude Provocation With The Weeknd & Lily-Rose Depp Is Gross & Sexist [Cannes]”. The Playlist. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2023.
  246. ^ Campione, Katie (ngày 28 tháng 8 năm 2023). 'The Idol' Canceled At HBO After One Season”. Deadline (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2023.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  247. ^ Galindo, Thomas (ngày 12 tháng 4 năm 2023). “The Weeknd Announces Soundtrack for Upcoming HBO Series 'The Idol'. American Songwriter. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  248. ^ Pedersen, Erik (ngày 28 tháng 6 năm 2023). “Movie Academy Invites Nearly 400 New Members Including Taylor Swift, Ke Huy Quan, The Daniels & Austin Butler”. Deadline. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2023.
  249. ^ Madarang, Charisma (ngày 21 tháng 7 năm 2023). “Travis Scott Releases 'K-POP,' Recruits The Weeknd and Bad Bunny”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2023.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  250. ^ Blistein, Jon (ngày 15 tháng 9 năm 2023). “Diddy Busts Out 'In the Air Tonight' Sample for the Weeknd's Final Feature on 'Another One of Me'. Rolling Stone (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2023.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  251. ^ Mamo, Heran (ngày 11 tháng 8 năm 2023). “The Weeknd Says He's Done With Features — Unless This Group Gets Back Together”. Billboard (bằng tiếng Anh Mỹ). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2023.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)