Bước tới nội dung

Zedd

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Zedd
Thông tin nghệ sĩ
Tên bản ngữАнтон Заславский
Tên khai sinhAnton Zaslavski[1]
Sinh2 tháng 9, 1989 (35 tuổi)
Saratov, CHXHCN Xô viết Liên bang Nga, Liên Xô
Nguyên quánKaiserslautern, Đức[2]
Thể loại
Nghề nghiệp
Nhạc cụ
Năm hoạt động2002–nay
Hãng đĩa
Hợp tác với
Websitezedd.net

Anton Zaslavski (tiếng Nga: Антон Игоревич Заславский; sinh ngày 02 tháng 9 năm 1989) được biết đến chủ yếu bởi nghệ danh Zedd (/ˈzɛd/), là một nhà sản xuất nhạc điện tử, DJ và nhạc sĩ[2][7] người Nga - Đức[8]. Anh chủ yếu sản xuất nhạc electro house,[9] nhưng sau này anh đã thử nghiệm các thể loại âm nhạc mới, với các ảnh hưởng từ progressive house, dubstep, và nhạc cổ điển. Zedd lớn lên và bắt đầu sự nghiệp của mình ở Kaiserslautern, Đức. Những nhạc phẩm tiêu biểu của anh cho tới nay có thể nhắc tới bài hát "Clarity" với sự góp giọng của Foxes đã đạt vị trí thứ 8 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và vị trí quán quân trên bảng xếp hạng US Hot Dance Club Songs; và "Break Free", một bài hát đã vươn lên được vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Hot Dance/Electronic Songs, trở thành bài hát đầu tiên của anh làm được điều này. Zedd cũng có được một Giải Grammy cho Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất tại Giải Grammy lần thứ 56 cho "Clarity".[10]

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Zaslavski sinh ra ở Saratov, Nga vào ngày 2 tháng 9 năm 1989.[8][11] Anh là một nhạc sĩ được đào tạo theo kiểu cổ điển,[12] Anh là con trai của hai nhạc sĩ[13] bắt đầu chơi piano năm bốn tuổi và biết chơi trống năm mười hai tuổi. Năm 2002, anh bắt đầu chơi cho ban nhạc Đức Dioramic, và ký hợp đồng với Lifeforce Records. Anh bắt đầu sản xuất âm nhạc điện tử trong năm 2009.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

2002–11: Bắt đầu sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2002, Zaslavski bắt đầu chơi nhạc cho ban nhạc Đức Dioramic của hãng thu âm Lifeforce Records. Đam mê sản xuất nhạc điện tử của Zaslavski bắt đầu khi anh nghe album của bộ đôi nhạc điện tử người Pháp Justice.[14] Anh bắt đầu sản xuất nhạc điện tử vào năm 2009.

Dưới cái tên 'Zedd', Zaslavski đã tham gia sản xuất khá nhiều các bài hát cũng như phiên bản remix. Anh chiến thắng hai giải trong cuộc thi phối khí năm 2010 của Beatport;[15] sản phẩm âm nhạc đầu tiên của anh, "The Anthem", đã lọt vào top 20 bảng xếp hạng Beatport Electro House. Bản phối lại của Zedd cho bài hát "Scary Monsters and Nice Sprites" của Skrillex cũng lọt vào bảng xếp hạng Beatport Electro House với vị trí á quân. Từ đó anh cũng tham gia phối lại các bài hát của nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như Justin Bieber, Lady Gaga, The Black Eyed Peas...[16]

Năm 2011, Bản remix của Zedd cho bài hát "Born This Way" của Lady Gaga được xuất hiện trong phiên bản đặc biệt của album phòng thu Born This Way (2011) của cô.[17] Tháng 9, 2011, ba mươi giây nghe trước của đĩa đơn "Shave It Up" của Zedd được ra mắt trên kênh YouTube của Skrillex, trở thành sản phẩm đầu tiên của Zedd được phát hành bởi hãng thu âm OWSLA Records.

Từ trái sang: Porter Robinson, Zedd, và Skrillex biểu diễn tại SXSW vào ngày 16 tháng 3 năm 2012.

2012–14: Clarity

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2012, Zedd ký hợp đồng với Interscope Records và ra mắt đĩa đơn đầu tiên từ hãng thu âm này, "Spectrum", với sự góp giọng của Matthew Koma.[18] Anh sau đó tham gia sản xuất cho bài hát "I Don't Like You" của Eva Simons, bài hát này cũng được phát hành bởi Interscope. Đĩa đơn thứ ba "Beauty and a Beat" từ album phòng thu thứ ba của Justin Bieber, Believe, cũng là do Zedd đồng sáng tác và sản xuất cùng với Max Martin.[19]

Năm 2013, Zedd thực hiện sản xuất ba bài hát "Aura", "G.U.Y.", và "Donatella" cho album phòng thu năm 2013 của Lady Gaga, Artpop.[20] Anh cũng là nhà sản xuất cho "Heaven" từ album Feel của Namie Amuro.[21]

Ngày 26 tháng 1 năm 2014, Zedd phát hành đĩa đơn "Find You" hợp tác với Matthew Koma và Miriam Bryant, bài hát nằm trong album nhạc phim của Dị biệt.[22] Ngày 3 tháng 7 năm 2014, Ariana Grande phát hành một bài hát có sự hợp tác của Zedd có tựa "Break Free",[23] bài hát đạt vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Hot Dance/Electronic Songs.[24] Bài hát này được đề cử cho Giải Sự lựa chọn của Giới trẻ ở hạng mục "Bài hát chia tay".[25]

2015–2016: True Colors

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 23 tháng 2 năm 2015, Zedd phát hành một nhạc phẩm cộng tác với Selena Gomez lấy tên "I Want You to Know".[26] Bài hát được đồng sáng tác bởi Zedd, Ryan Tedder từ OneRepublic, và KDrew.[27][28]

Album phòng thu thứ hai của Zedd, True Colors, được phát hành vào ngày 18 tháng 5 năm 2015.[29]

2024-nay: Telos

[sửa | sửa mã nguồn]

9 năm sau khi phát hành True Colors, Zedd công bố album thứ ba của mình, Telos, phát hành từ ngày 30 tháng 8, 2024. Zedd phát hành bài hát "Out of Time", đặc trưng ca sĩ Bea Miller, là đĩa đơn đầu tiên trong album.

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Giải thưởng Đề cử Hạng mục Kết quả
2013 Giải Video âm nhạc của MTV "Clarity" (hợp tác với Foxes) Nghệ sĩ đáng theo dõi Đề cử[30]
Giải thưởng Âm nhạc Mỹ Zedd Nghệ sĩ nhạc điện tử yêu thích nhất Đề cử[31]
2014 Giải Grammy "Clarity" (hợp tác với Foxes) Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất Đoạt giải[32]
Giải thưởng Âm nhạc iHeartRadio "Clarity" Bài hát EDM của năm Đề cử
Giải thưởng âm nhạc Billboard Zedd Top nghệ sĩ nhạc dance/điện tử Đề cử[33]
"Clarity" Top bài hát nhạc dance/điện tử Đề cử[33]
Clarity Top album nhạc dance/điện tử Đề cử[33]
Giải Sự lựa chọn của Giới trẻ Zedd Lựa chọn nghệ sĩ nhạc dance – điện tử Đề cử[34]
Giải Video âm nhạc của MTV "Stay the Night" Giải thưởng MTV Clubland Đoạt giải[35]
Giải Âm nhạc châu Âu của MTV Zedd Nghệ sĩ Push xuất sắc nhất Đề cử[36]
Giải thưởng DJ Zedd DJ electro xuất sắc nhất Đề cử[37]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Zedd en Twitter: "@_RebecaQuinn I don't have a middle name lol". Truy cập 20 tháng 1 năm 2020.
  2. ^ a b Heaney, Gregory. “Allmusic: Zedd (Biography)”. AllMusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2013.
  3. ^ Dolan, Jon (ngày 8 tháng 5 năm 2013). “Zedd, Clarity”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2014.
  4. ^ “Biography”. zedd.net (Official site). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014.
  5. ^ “Zedd Bio”. AllMusic.
  6. ^ “Zedd: Information”. DJ List. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2018.
  7. ^ “WIRE: ZEDD TO RELEASE DEBUT ALBUM”. skopemag.com. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2013.
  8. ^ a b “Twitter: Zedd: @Felaaa @Enjik born in russia, grew up in germany”. Twitter.com. ngày 17 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2013. |tên 1= thiếu |tên 1= (trợ giúp)
  9. ^ “ELR™ Exclusive Interview w/ Zambac | EasyLove Records™ | Electronic Music Blog”. Easyloverecords.com. ngày 19 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2012.
  10. ^ “Zedd & Cedric Gervais Take Home First Grammys”. Billboardy. ngày 26 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2014.
  11. ^ tynki says. “Exclusive Interview: Zedd”. Electronica Oasis. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2012.
  12. ^ “Zedd Exclusive Interview”. The Worst Guy. ngày 23 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2012.
  13. ^ “[Interview] Zedd – 'The important point of the actual music is being neglected a bit' | Upcoming-Soon | Welcome To Coming Soon World”. Upcoming-Soon. ngày 5 tháng 6 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2012.
  14. ^ “An Early Christmas Gift! An Interview with Zedd. « 310 Electro”. 310electro.com. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2012.
  15. ^ Brown, Hayley (ngày 23 tháng 7 năm 2014). “Beatport's New President Lloyd Starr on Download Farms, What EDM Even Is”. Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2014.
  16. ^ Lee, Christina (ngày 2 tháng 8 năm 2014). “MAGIC!'s "Rude" Gets Remixed By Zedd At Lollapalooza”. Idolator. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2014.
  17. ^ Daw, Robbie (ngày 21 tháng 10 năm 2011). “Lady Gaga's 'Born This Way: The Remix' & 'The Collection' Covers Revealed”. Idolator. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2014.
  18. ^ “Zedd Bio, Music, News & Shows”. DJZ.com. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2013.
  19. ^ Vena, Jocelyn. “Justin Bieber Didn't 'Convince' 'Beauty And A Beat' Producer Zedd At First”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2013.
  20. ^ “Lady Gaga Has 'A Lot Of Work Left' On ARTPOP Songs”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2013.
  21. ^ St. Michel, Patrick (ngày 14 tháng 8 năm 2013). “Namie Amuro "Feel". The Japan Times. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2014.
  22. ^ Rigby, Sam (ngày 18 tháng 3 năm 2014). “Zedd premieres Divergent music video for 'Find You'. Digital Spy. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2014.
  23. ^ Lipshutz, Jason (ngày 23 tháng 6 năm 2014). “Ariana Grande's 'Break Free': Zedd Discusses The 'Problem' Follow-Up”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014.
  24. ^ Trust, Gary. “Ariana Grande, Iggy Azalea Triple Up In Hot 100's Top 10, MAGIC! Still No. 1”. Billboard. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2014.
  25. ^ “2014 Teen Choice Awards Nominees Announced”.
  26. ^ “Zedd And Selena Gomez Release Highly Anticipated Single I Want You To Know”.
  27. ^ "Selena did a bang-up job. She killed it," says Tedder of the hotly anticipated new track”. Billboard. ngày 8 tháng 2 năm 2015.
  28. ^ “Written-By – Anton Zaslavski, Kevin Nicholas Drew, Ryan Tedder”. Discogs. ngày 27 tháng 2 năm 2015.
  29. ^ “Zedd Announces Album Release Date”.
  30. ^ “2013 Video Music Award Nominations: Get The Full List!”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2013.
  31. ^ 'American Music Awards' 2013 nominees, winners – complete list”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2015.
  32. ^ “Grammy Awards 2014 Nominations, Dance Genre”.
  33. ^ a b c “2014 Winners”. Billboard Music Awards. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2014.
  34. ^ Malec, Brett (ngày 17 tháng 6 năm 2014). “Teen Choice 2014 Nominees: Vampire Diaries and Pretty Little Liars Lead, Catching Fire Comes in Second”. E! Online. NBC Universal. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2014.
  35. ^ Frith, Vanessa (ngày 25 tháng 8 năm 2014). “MTV VMAs 2014 'Clubland' Winner Is Zedd For 'Stay The Night'. ENSTARS. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2014.
  36. ^ “MTV EMAs 2014: Katy Perry sieben, Ariana Grande sechs Mal nominiert”. Musikmarkt (bằng tiếng Đức). ngày 17 tháng 9 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2014.
  37. ^ “2014 Winners and Nominee's”. djawards.com. DJ Awards. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2015.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]