U-223 (tàu ngầm Đức)
Tàu ngầm U-boat Type VIIC
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đức Quốc Xã | |
Tên gọi | U-223 |
Đặt hàng | 15 tháng 8, 1940 |
Xưởng đóng tàu | Germaniawerft, Kiel |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 653 |
Đặt lườn | 15 tháng 7, 1941 |
Hạ thủy | 16 tháng 4, 1942 |
Nhập biên chế | 6 tháng 6, 1942 |
Tình trạng | Bị các tàu chiến Anh đánh chìm trong Địa Trung Hải, 30 tháng 3, 1944[1] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [2] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [2] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[1][3] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 01 671 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: |
U-223 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực hiện được sáu chuyến tuần tra, đánh chìm hoặc gây tổn thất toàn bộ cho ba tàu buôn với tổng tải trọng 17.526 GRT, đồng thời đánh chìm hoặc gây tổn thất toàn bộ cho hai tàu chiến với tổng tải trọng 3.235 tấn. Trong chuyến tuần tra cuối cùng tại Địa Trung Hải, U-223 bị các tàu chiến Hải quân Hoàng gia Anh phối hợp đánh chìm ở vị trí về phía Bắc Palermo, Sicilia vào ngày 30 tháng 3, 1944.
Thiết kế và chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]Thiết kế
[sửa | sửa mã nguồn]Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
Chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]U-223 được đặt hàng vào ngày 15 tháng 8, 1940,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Friedrich Krupp Germaniawerft tại Kiel vào ngày 15 tháng 7, 1941.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 16 tháng 4, 1942,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 6 tháng 6, 1942[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Karl-Jürg Wächter.[1]
Lịch sử hoạt động
[sửa | sửa mã nguồn]1944
[sửa | sửa mã nguồn]Chuyến tuần tra thứ sáu - Bị mất
[sửa | sửa mã nguồn]U-223 khởi hành từ cảng Toulon, Pháp vào ngày 16 tháng 3 cho chuyến tuần tra thứ sáu, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động tại vùng biển giữa các đảo Sardegna, Sicilia và lục địa Ý.[3] Vào ngày 29 tháng 3, U-223 bị tàu khu trục Anh HMS Ulster phát hiện qua sonar ở vị trí về phía Bắc Palermo. Ulster phối hợp cùng các tàu khu trục HMS Laforey và HMS Tumult tấn công mục tiêu bằng mìn sâu cho đến sáng ngày hôm sau 30 tháng 3, khi U-223 bị hư hại nặng, buộc phải trồi lên mặt nước và tiếp tục bị tấn công bằng hải pháo. Vào lúc này Ulster được thay phiên bởi các tàu khu trục hộ tống HMS Hambledon và HMS Blencathra. U-223 bị đánh chìm tại tọa độ 38°48′B 14°10′Đ / 38,8°B 14,167°Đ; 23 người trong số thành viên thủy thủ đoàn của U-221 đã tử trận, và có 27 người sống sót được cứu vớt và bị bắt làm tù binh chiến tranh. Trước khi đắm, U-223 cũng đã kịp phóng ba quả ngư lôi đánh chìm HMS Laforey (1.935 tấn).[1]
"Bầy sói" tham gia
[sửa | sửa mã nguồn]U-223 từng tham gia tám bầy sói:
- Haudegen (26 tháng 1 – 2 tháng 2, 1943)
- Nordsturm (2 – 9 tháng 2, 1943)
- Haudegen (9 – 15 tháng 2, 1943)
- Taifun (15 – 20 tháng 2, 1943)
- Amsel (22 tháng 4 – 3 tháng 5, 1943)
- Amsel 2 (3 – 6 tháng 5, 1943)
- Elbe (7 – 10 tháng 5, 1943)
- Elbe 2 (10 – 12 tháng 5, 1943)
Tóm tắt chiến công
[sửa | sửa mã nguồn]U-223 đã đánh chìm được hai tàu buôn tổng tải trọng 12.556 GRT và một tàu chiến tải trọng 1.935 tấn, đồng thời gây tổn thất toàn bộ cho một tàu buôn 4.970 GRT và một tàu chiến 1.300 tấn:
Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[5] |
---|---|---|---|---|
3 tháng 2, 1943 | Dorchester | United States | 5.649 | Bị đánh chìm |
23 tháng 2, 1943 | Winkler | Panama | 6.907 | Bị đánh chìm |
2 tháng 10, 1943 | Stanmore | United Kingdom | 4.970 | Tổn thất toàn bộ |
11 tháng 12, 1943 | HMS Cuckmere | Hải quân Hoàng gia Anh | 1.300 | Tổn thất toàn bộ |
30 tháng 3, 1944 | HMS Laforey | Hải quân Hoàng gia Anh | 1.935 | Bị đánh chìm |
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c d e f g h Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-223”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2024.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2024.
- ^ a b Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-223”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2024.
- ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-223”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2024.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Blair, Clay (1996). Hitler's U-Boat War: The Hunters, 1939-1942. ISBN 0394588398.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
- Edwards, Bernard (1996). Dönitz and the Wolf Packs – The U-boats at War. Cassell Military Classics. tr. 160, 206, 211. ISBN 0-304-35203-9.
- Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
- Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
- Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
- Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File. Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-223”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2024.
- Hofmann, Markus. “U 223”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2024.